Ngày 17 tháng 11 năm 2021, Uỷ ban châu Âu EC công bố dự luật COM(2021)706 về việc đưa vào thị trường EU cũng như xuất khẩu từ EU một số mặt hàng và sản phẩm liên quan đến nạn phá rừng và suy thoái rừng.[1] Dự luật có 02 mục tiêu là: (i) giảm thiểu tối đa việc tiêu thụ các sản phẩm đến từ chuỗi cung ứng có liên quan đến nạn phá rừng và làm suy thoái rừng; và (ii) tăng cường nhu cầu tiêu thụ và buôn bán của EU đối với các sản phẩm hợp pháp và “không phá rừng”. Nguyên nhân chính của tình trạng nói trên được cho là việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp để sản xuất một số mặt hàng như gia súc, gỗ, dầu cọ, đậu nành, ca cao và cà phê. Theo đó, dự luật dự kiến sẽ ngăn chặn tình trạng phá rừng bị gây ra bởi việc sản xuất và tiêu thụ tại thị trường EU đối với 06 mặt hàng kể trên cũng như một số sản phẩm phái sinh của chúng, chẳng hạn chocolate, đồ da, nội thất.
Điều 27 của Dự luật đưa ra một hệ thống chuẩn quốc gia (country benchmarking system). Thông qua hệ thống này, EU sẽ đánh giá mức độ rủi ro mà các quốc gia sản xuất các mặt hàng không mang tính chất “không phá rừng” (deforestation-free). Hệ thống này sẽ xếp loại mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ một trong 03 mức độ rủi ro: thấp, tiêu chuẩn và cao. Các cơ quan có thẩm quyền của EU có thể tăng cường giám sát đối với các mặt hàng liên quan được sản xuất tại các quốc gia có mức độ rủi ro cao; và đơn giản hóa thủ tục hành chính, trách nhiệm giải trình đối với các quốc gia có mức độ rủi ro thấp.
Các nhà khai thác và thương nhân sẽ phải chứng minh rằng các sản phẩm của mình đáp ứng 02 tiêu chí: (i) không phá rừng (được sản xuất trên đất không bị phá rừng sau ngày 31 tháng 12 năm 2020); và (ii) hợp pháp (tuân thủ tất cả các luật hiện hành có liên quan có hiệu lực tại quốc gia sản xuất).
Các doanh nghiệp cũng sẽ được yêu cầu thu thập thông tin địa lý chính xác trên đất nông nghiệp nơi trồng các loại hàng hoá mà họ cung cấp, với mục đích kiểm tra xem những hàng hóa này có tuân thủ quy định hay không. Sẽ có chế tài đối với việc không tuân thủ các quy định nói trên.
Danh sách các sản phẩm thuộc phạm vi bị giám sát sẽ được rà soát và cập nhật thường xuyên, có xét đến các cơ sở dữ liệu mới, chẳng hạn như thay đổi mô hình phá rừng.
Ngày 06 tháng 11 năm 2022, Nghị viện châu Âu, Uỷ ban châu Âu và Hội đồng châu Âu đã kết thúc quá trình thảo luận 03 bên, đồng ý về mặt nguyên tắc đối với nội dung của dự luật. Dự luật đang tiếp tục được hoàn thiện và theo kế hoạch sẽ bắt đầu có hiệu lực trong năm 2023.[2]
Trong nhóm các sản phẩm bị cho là liên quan đến phá rừng thuộc phạm vi điều chỉnh theo dự luật nói trên, gỗ & sản phẩm gỗ và cà phê là 02 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tại thị trường EU.
- Về mặt hàng cà phê: EU là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng bình quân 39,3% (theo lượng) và 37,6% (theo trị giá) trong tổng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam vào thị trường EU trong giai đoạn năm 2015 – 2020 đạt trung bình 641,2 nghìn tấn/năm, với tốc độ tăng trưởng bình quân là 1,5%/năm; kim ngạch bình quân đạt 1,167 tỷ USD/năm. Trong năm 2021, xuất khẩu cà phê tới thị trường EU đạt trị giá 1,025 tỷ USD, tăng 4,3% so với năm 2020. Theo số liệu Eurostat, năm 2021, EU nhập khẩu 867,1 triệu EUR cà phê từ Việt Nam, giảm 8,65% so với năm 2020, chiếm 10,54% thị phần trong tổng kim ngạch nhập khẩu cà phê vào EU từ thị trường ngoại khối.
- Về mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ: EU là thị trường xuất khẩu thứ năm của Việt Nam (sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 8% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của cả nước. Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường EU trong giai đoạn năm 2015 – 2020 đạt kim ngạch bình quân khoảng 508 triệu USD/năm, với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 2%. Trong năm 2021, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường EU đạt 619,3 triệu USD, tăng 19,1% so với năm 2020. Theo số liệu Eurostat, năm 2021 EU nhập khẩu 38,96 tỷ EUR đồ nội thất bằng gỗ từ Việt Nam, tăng 11,47 % so với năm 2020, chiếm 1,84% thị phần trong tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này vào EU từ thị trường ngoại khối.
EU hiện là thị trường xuất khẩu nông lâm sản hàng đầu của Việt Nam, do vậy việc triển khai dự luật sẽ có tác động nhất định đến lợi ích xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam, trước mắt đối với 2 mặt hàng cà phê & gỗ và về lâu dài có thể tiềm ẩn nguy cơ đối với các sản phẩm nông lâm sản khác. Trong thời gian tới, EU có thể xem xét mở rộng thêm một số sản phẩm vào danh sách kiểm soát, trong đó đáng lưu ý là mặt hàng cao su và dừa có thể ảnh hưởng đáng kể đến xuất khẩu sang EU. Mặt bất lợi sẽ tạo thêm gánh nặng hành chính cho nông dân và doanh nghiệp xuất khẩu khi nhiều khả năng phải đáp ứng thêm các thủ tục chứng nhận khu vực trồng, đăng ký số lô, số ruộng…
Riêng đối với mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, do hiện nay thương mại lâm sản giữa Việt Nam và EU đã được điều chỉnh riêng theo cơ chế song phương - Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) và khuôn khổ WTO, nên về cơ bản dự luật này của EU sẽ ảnh hưởng không đáng kể đến xuất khẩu gỗ & sản phẩm gỗ của Việt Nam. Hiệp định VPA/FLEGT Việt Nam – EU ký kết ngày 19/10/2018 và có hiệu lực từ ngày 01/6/2019 đã thiết lập khung pháp lý đảm bảo rằng tất cả sản phẩm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam sang EU có nguồn gốc và được sản xuất hợp pháp. Mục tiêu này phù hợp với cam kết quản lý bền vững tất cả các loại rừng của hai Bên, thông qua việc thiết lập Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS), cùng với cơ chế cấp phép FLEGT, theo đó chỉ những sản phẩm gỗ có giấy phép FLEGT được phép vào thị trường EU.
