Tin tức

Phân tích cảnh báo các mặt hàng xuất khẩu sang các thị trường đối tác FTA thế hệ mới có nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp hoặc biện pháp PVTM trong Quý III/2022

Thứ Sáu, 27/10/2023


 

  1. Tình hình sản xuất, xuất khẩu dệt may của Việt Nam

Ngành Công nghiệp dệt may Việt Nam trong những năm gần đây được đánh giá đã có những bước tiến tích cực cả về sản xuất và xuất khẩu. Trong đó, tốc độ tăng trưởng trong sản xuất của ngành dệt may bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 7,9%/năm, riêng năm 2018 tăng trên 33%. Năm 2020, ngành dệt may là một trong những ngành chịu nhiều tác động tiêu cực và kéo dài của đại dịch Covid-19. Do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, nên chỉ số sản xuất công nghiệp ngành dệt giảm 0,5%; ngành Sản xuất trang phục giảm 4,9%, làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp thị trường tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may giảm sút mạnh khi người tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống dịch. Trong 9 tháng năm 2021, ngành dệt may đã có nhiều tín hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm trước nhờ chuỗi sản xuất phục hồi với đơn hàng truyền thống tăng trở lại. Chỉ số sản xuất ngành dệt và Sản xuất trang phục trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, trong đó, chỉ số sản xuất ngành dệt tăng 7,8%; ngành sản xuất trang phục tăng 4,8%. Chỉ số sản xuất của một số sản phẩm trong 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm 2020, như: vải dệt từ sợi tự nhiên ước tính đạt 501,5 triệu m2, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo đạt 860,4 triệu m2, tăng 4,9%; quần áo mặc thường đạt 3.411,2 triệu cái, tăng 4,5%. Đáng chú ý, so với cùng thời điểm trước đại dịch (9 tháng đầu năm 2019), sản xuất vải dệt từ sợi tự nhiên của Việt Nam tăng 5,4%; trái lại, sản xuất vải dệt từ sợi nhân tạo hoặc tổng hợp và sản xuất trang phục giảm lần lượt là 2,4% và 10%. 

Cùng với sản xuất, xuất khẩu toàn ngành dệt, may mặc của Việt Nam cũng đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu dệt may phục hồi khả quan dù trải qua nhiều yếu tố khó khăn. Trong năm 2021, ngành dệt may đạt kim ngạch 39 tỷ USD, tăng trưởng 11% so với năm 2020, mức kim ngạch này tương đương với giá trị trước thời điểm Covid-19 (năm 2019).

Hình: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam

Chart, line chart, histogram

Description automatically generated

Nguồn: BSC

Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang các nước trong 9 tháng đầu năm 2022 là 29.014.051 nghìn USD, tăng 23,95% so với cùng kì năm trước. Năm 2022 là thời điểm các doanh nghiệp dệt may từng bước phục hồi sau hai năm chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. 

Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang các nước 

trong 9 tháng đầu năm 2022

Có thể thấy, thị trường xuất khẩu dệt may chính của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 là Hoa Kỳ với 13.869.366 nghìn USD, chiếm 47,80% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam; tiếp đến là Nhật Bản với 2.920.662 nghìn USD, chiếm 10,07% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Đứng thứ 3 là Hàn Quốc với 2.522.939 nghìn USD, chiếm 8,70% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Canada và CHND Trung Hoa là thị trường xuất khẩu dệt may thứ 4 và thứ 5 của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 1.018.094 nghìn USD (chiếm 3,51%) và 925.621 nghìn USD (chiếm 3,19%). Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang các nước trong Quý III tăng 6,41% so với Quý II và 20,8% so với Quý I.

2. Đặc điểm ngành dệt may của Hàn Quốc

Tầm quan trọng của ngành dệt may

Ngành dệt may của Hàn Quốc đang phục hồi như một ngành kinh doanh tăng trưởng có giá trị cao với công nghệ tiên tiến. Ngành kinh doanh này, từng là ngành hàng đầu chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong những năm 1970, đã rơi vào tình trạng suy thoái trong những thập kỷ gần đây cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ trong các lĩnh vực như điện tử và ô tô. Tuy nhiên, ngành dệt may vẫn giữ vai trò quan trọng và bao gồm nhiều hoạt động tích hợp theo chiều dọc. Ngành dệt may của Hàn Quốc có cơ cấu công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài và định hướng xuất khẩu, trong đó 1/3 nguyên liệu thô được nhập khẩu và xử lý để tạo thành phẩm và 2/3 thành phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài. Xuất khẩu dệt may năm 2021 là 12,81 tỷ USD, nhập khẩu là 18,3 tỷ USD, khiến cán cân thương mại hàng hóa thâm hụt 5,49 tỷ USD. Cán cân thương mại của ngành dệt may và thời trang ghi nhận thặng dư hơn 10 tỷ đô la mỗi năm kể từ năm 1987, khi lần đầu tiên đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ đô la trong một ngành, đến năm 2001. Ngành dệt may và thời trang trong nước có 44.931 nhà sản xuất, chiếm 10,2% toàn ngành sản xuất và số lượng lao động là 268.918 người, chiếm 6,5%. Tổng số công ty trong ngành dệt may, bao gồm các công ty liên quan khi tính cả các ngành bán buôn và bán lẻ dệt may, thời trang và dịch vụ là 288.953 và số lượng lao động là 804.839 người.

Hơn nữa, đây là một nhà xuất khẩu đáng kể - đặc biệt là hàng dệt may - xuất phát từ thực tế là sở hữu một ngành công nghiệp sợi tổng hợp rộng lớn. Nhìn về tương lai, ngành đã bắt tay vào chiến lược tập trung phát triển các nguyên liệu dệt may mới nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu. Đặc biệt, trọng tâm sẽ là sợi thông minh, sợi nano và siêu sợi công nghệ cao.

Sản xuất và xuất khẩu

Trong những năm 1960, mục tiêu kinh tế của Hàn Quốc là thoát khỏi tình trạng đói nghèo tuyệt đối và thu đổi ngoại hối cần thiết để nhập khẩu nguyên vật liệu. Để giải quyết những vấn đề trên, Hàn Quốc đã thay đổi chiến lược tăng trưởng từ thay thế nhập khẩu sang xúc tiến xuất khẩu. Phát triển ngành dệt may trở thành ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu. Các ngành công nghiệp cần nhiều lao động như dệt may có thể mở rộng xuất khẩu thông qua cạnh tranh giá dựa trên mức lương thấp và lực lượng lao động dồi dào. Ngành kéo sợi và dệt bông đã đạt mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhờ chính sách xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ trong những năm 1960. Việc sản xuất sợi polyester vào năm 1968 giúp ngành công nghiệp dệt may Hàn Quốc bước vào những giai đoạn mới của sự phát triển. Thời kỳ của sợi polyester bắt đầu khi vận hành nhà máy sản xuất sợi xơ ngắn năm 1968 và sợi xơ dài năm 1969. Sản xuất sợi polyester tại Hàn Quốc góp phần đáng kể vào việc cải thiện khả năng cạnh tranh xuất khẩu của ngành công nghiệp bông và len. Sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành dệt may trong những năm 1970 góp phần tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc. Trong thập niên 1970, xuất khẩu sợi bông và vải của Hàn Quốc tăng đáng kể nhờ hỗ trợ của Chính phủ trong việc thu mua nguyên liệu thô để xuất khẩu và chuyển sang các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Giai đoạn 1980 xây dựng tổ hợp nhuộm và hoàn tất để theo đuổi giá trị gia tăng cao hơn, đáp ứng tăng cường cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Nhờ những chính sách xúc tiến của Chính phủ, xuất khẩu lần đầu tiên vượt quá 10 tỉ đô la vào năm 1987. Chi phí sản xuất tăng cao do tăng lương và tranh chấp lao động vào cuối những năm 1980, các công ty dần chuyển cơ sở sản xuất sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam - nơi có nguồn lao động giá rẻ và dồi dào. Xuất khẩu bắt đầu sụt giảm vào năm 2000 do không thể cạnh tranh với Trung Quốc ở thị trường sản phẩm giá thấp đến trung bình, và với Ý, Nhật Bản… ở các sản phẩm giá cao. Do vậy, Hàn Quốc thực hiện đa dạng hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm cao hơn thông qua việc nghiên cứu và phát triển để tăng cường cạnh tranh về giá với các nước đang phát triển. Trong đó, sợi hóa học: dịch chuyển cấu trúc sản xuất tập trung vào sợi tổng hợp có độ bền cao, sợi chức năng tổng hợp cao, sợi nhỏ và vật liệu có tính đàn hồi cao; vải: chuyển sang cơ cấu sản xuất tiên tiến tập trung vào các loại vải mỏng nhẹ, vải tổng hợp, vải chức năng cao và vải dệt thiết kế; hàng may mặc: duy trì lợi thế cạch tranh thông qua phát triển thiết kế, chất liệu thời trang và thương hiệu độc lập. Ngành công nghiệp dệt may của Hàn Quốc đã nâng cao khả năng cạnh tranh do nâng cấp cơ cấu ngành và thúc đẩy sản xuất sợi kĩ thuật có giá trị gia tăng cao hơn vào cuối những năm 2000, thay đổi nhằm tăng số lượng công ty và lao động năm 2010. Xuất khẩu bắt đầu tăng do nâng cao khả năng cạnh tranh và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu vào cuối những năm 2000.

Thành lập khu liên hợp sản xuất chuyên ngành trong khu vực

Hình: Bản đồ phân bố khu liên hợp sản xuất trong lĩnh vực dệt may của Hàn Quốc

http://hict.edu.vn/pic/News/images/2020/THM/04.jpg

cấu công nghiệp cân bằng: Tích hợp theo chiều dọc từ các sản phẩm thượng nguồn, trung nguồn cho tới hạ nguồn để trở thành ngành dịch vụ khép kín. Trong đó, sợi nhân tạo ở dòng thượng nguồn – vải (dệt/đan) và nhuộm và hoàn thiện ở dòng trung nguồn – sản phẩm dệt may ở dòng hạ nguồn.

Hình: Cơ cấu sản xuất dệt may

http://hict.edu.vn/pic/News/images/2020/THM/06.jpg

Đặc biệt, mặt hàng vải và ngành nhuộm và hoàn thiện cho thấy khả năng cạnh tranh cao do tiếp tục nghiên cứu và phát triển trên cơ sở của viện nghiên cứu chuyên ngành trong khu vực. Do đó, thặng dư thương mại của mặt hàng vải đạt 5.3 tỷ đô la Mỹ và chiếm 53.6% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành trong năm 2018.

Bảng: Chỉ tiêu sản xuất, xuất nhập khẩu ngành dệt may Hàn Quốc 

từ năm 2019 đến Quý III/2022

Chỉ tiêu

Năm 2019

Năm 2020

Năm 2021

Năm 2022

Tháng 7

Tháng 8

Tháng 9

9 tháng đầu năm

Sản xuất Tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước (%)

85,8

-6,5

73,3

-14,5

77,8

6,1

76,4

-5,1

73,9

0,2

77,0

1

75,8

-0,3

Xuất khẩu

Tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước (%)

12,959

-8

11,238

-13,3

12,807

14

1,026.0

-9,9

930.2

-1,0

966.5

-5,5

9,393.2

1,8

Nguồn: Hiệp hội Công nghiệp dệt may Hàn Quốc

Nhìn chung, tình hình sản xuất trong Quý III của Hàn Quốc có chiều hướng tăng nhẹ, tình hình xuất khẩu có xu hướng giảm từ tháng 7 đến tháng 8. Trong tháng 9/2022, tình hình sản xuất và xuất khẩu đều có xu hướng phục hồi. Tính chung 9 tháng đầu năm 2022, tình hình sản xuất ngành dệt may của Hàn Quốc có xu hướng giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước, ngược lại, , tình hình xuất khẩu ngành dệt may của Hàn Quốc có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước.

3. Tình hình xuất khẩu Quý III năm 2022 và thông tin cảnh báo mặt hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc

a. Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hàn Quốc Quý III/2022

Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam 

sang Hàn Quốc trong Quý III/2022

Trong Quý III/2022, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc đạt 1.157.540 nghìn USD. Trong tháng 7, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc đạt 317.932 nghìn USD, sang tháng 8, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 44,68% so với tháng 7, đạt 459.970 nghìn USD. Sang tháng 9, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 379.638 nghìn USD, mức giảm 17,46% so với tháng 8. Nhìn chung, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 89,38% so với Quý II/2022 (611.233 nghìn USD) và tăng 53,49% so với Quý I/2022 (754.167 nghìn USD).    

Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam

sang Hàn Quốc trong Quý III năm 2020 – 2022

 

Tháng 7

Tháng 8

Tháng 9

Quý III

2020

276 147

376 527

365 488

1,018,162

2021

248 589

287 796

318 566

854,951

2022

317 932

459 970

379 638

1,157,540

Tính trong Quý III/2022, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 35,39% so với Quý III/2021 và tăng 13,69% so với Quý III/2020. Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc trong Quý III/2022 tăng 89,38% so với Quý II/2022 và tăng 53,49% so với Quý I/2022. Nhìn chung, do sự phục hồi sau đại dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc trong 9 tháng đầu năm 2022 đạt 2.522.939 nghìn USD, tăng 20,23% so với cùng kỳ năm 2021 và 13,19% so với cùng kỳ năm 2020.

b. Một số thông tin cảnh báo

Theo số liệu của Cơ quan Hải quan Hàn Quốc, 8 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc đạt 287,5 nghìn tấn, trị giá 7,85 tỷ USD, tăng 15,83% về lượng và tăng 24,65% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, nhập khẩu từ hầu hết các nhà cung cấp chính đều tăng trưởng cao cả về khối lượng và trị giá, ngoại trừ nhập khẩu từ Việt Nam. 

Theo đó, nhập khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc từ Việt Nam 8 tháng đầu năm 2022 giảm 0,17% về lượng nhưng tăng 12,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021 – đi ngược lại xu hướng nhập khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc từ các thị trường chủ yếu khác. Do đó, thị phần hàng may mặc của Việt Nam tại Hàn Quốc bị thu hẹp từ 33,83% về lượng và 31,39% về trị giá trong 8 tháng năm 2021 xuống còn 29,16% về lượng và 28,23% về trị giá trong 8 tháng đầu năm 2022, dù Việt Nam vẫn là nhà cung cấp hàng may mặc lớn thứ 2 vào thị trường Hàn Quốc. Ngược lại, thị phần hàng may mặc của một số nhà cung cấp khác có xu hướng mở rộng, nhưng mức độ mở rộng còn hạn chế và không gây áp lực lớn đối với vị trí nhà cung cấp số 2 của Việt Nam bởi khoảng cách giữa nhà cung ứng số 2 và số 4 là rất lớn.

Bảng: Nhập khẩu hàng may mặc của Hàn Quốc từ một số thị trường chủ yếu 8 tháng đầu năm 2022

Thị trường chủ yếu

8 tháng đầu năm 2022

So với 8 tháng năm 2021 (%)

Lượng (tấn)

Trị giá (Nghìn USD)

Đơn giá (USD/kg)

Về lượng

Về trị giá

Về đơn giá

Tổng

287.587

7.852.602

27,31

15,83

24,65

7,62

Trung Quốc

130.751

2.533.312

19,38

14,23

23,67

8,27

Việt Nam

83.858

2.216.856

26,44

-0,17

12,10

12,29

Italia

1.071

562.280

525,00

16,65

19,33

2,29

Bangladesh

18.584

378.006

20,34

19,63

40,67

17,59

Indonesia

12.990

368.632

28,38

13,34

24,69

10,01

Myanmar

11.486

264.909

23,06

52,73

60,28

4,95

Cambodia

3.385

128.858

38,07

18,43

18,04

-0,32

Bồ Đào Nha

605

126.665

209,33

9,38

18,22

8,08

Romania

545

108.786

199,72

195,87

56,91

-46,97

Thổ Nhĩ Kỳ

1.567

97.941

62,49

3,76

10,36

6,36

Philippines

1.924

81.150

42,17

-0,71

13,43

14,24

Pháp

166

76.401

460,80

38,05

25,70

-8,95

Ấn Độ

2.103

71.671

34,08

50,93

41,10

-6,52

Nhật Bản

313

64.514

206,05

37,81

16,29

-15,61

Thái Lan

987

63.442

64,26

11,03

11,19

0,14

Hoa Kỳ

364

51.810

142,53

14,34

20,03

4,97

Anh

116

42.523

367,85

-1,70

-2,85

-1,17

Pakistan

1.368

41.841

30,58

71,71

87,53

9,21

Srilanka

707

41.628

58,90

6,58

19,77

12,38

Morocco

643

34.143

53,10

6,97

-0,46

-6,95

Tunisia

204

29.236

143,17

9,08

17,39

7,61

Bulgaria

136

26.134

192,30

11,12

20,61

8,54

Đức

90

24.545

273,03

32,21

35,31

2,35

Bosnia and Herzegovina

33

20.329

625,51

8,70

47,32

35,54

Moldova 

53

14.016

266,46

56,55

46,63

-6,34

Armenia

24

10.589

444,92

44,24

25,46

-13,02

Canada

38

9.301

245,41

-8,67

20,59

32,04

Tây Ban Nha

65

9.259

143,11

-5,13

11,02

17,02

Malaysia

191

7.897

41,45

34,06

47,41

9,96

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Cơ quan Hải quan Hàn Quốc

Do xuất khẩu của ta tăng nhanh trong thời gian vừa qua nhờ tác động tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) nên đã có sự gia tăng nhanh chóng của các vụ việc phòng vệ thương mại áp dụng với hàng xuất khẩu từ Việt Nam với mức độ phức tạp ngày càng cao. Nhiều mặt hàng của ta đã tạo ra sức ép cạnh tranh lớn tại thị trường nước nhập khẩu, khiến ngành sản xuất tại các nước này đề nghị Chính phủ họ điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số lượng các vụ việc chống lẩn tránh điều tra ngày càng gia tăng. Theo đánh giá của các chuyên gia, một trong những nguyên nhân chính là do các thị trường nhập khẩu cho rằng hàng hóa Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Tại Việt Nam, dệt may là ngành quan trọng không chỉ mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 3 của cả nước mà còn góp phần ổn định an sinh xã hội. Ngành dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng 2,5 triệu lao động, xuất khẩu hơn 40 tỷ USD/năm, thu nhập trung bình của người lao động đạt khoảng 3.800 USD/năm. Tuy kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng của ngành thấp, chưa chủ động được nguồn nguyên phụ liệu, năng suất lao động thấp hơn các nước trong khu vực và chỉ ở mức trung bình khá. Trung Quốc là thị trường lớn nhất cung cấp nhóm hàng nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may của Việt Nam. Trung Quốc cũng là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Hàn Quốc. Ngày 4/7/2019, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ" nhằm ngăn chặn các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là gian lận xuất xứ hàng hóa, theo hướng toàn diện, đồng bộ và kịp thời, giúp khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, phát triển bền vững xuất nhập khẩu; bảo vệ quyền và lợi ích của Việt Nam trong thương mại quốc tế; bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính. Ngành dệt may Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục đóng vai trò không chỉ là trụ cột quan trọng trong xuất khẩu của cả nước mà còn là nhà xuất khẩu dệt may lớn trên thế giới khi Việt Nam được xem là một trong những địa điểm sản xuất hấp dẫn, do vậy, doanh nghiệp cần chủ động sử dụng công cụ phòng vệ thương mại để thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng và bảo vệ lợi ích chính đáng của ngành sản xuất trong nước. 

 

Bài viết liên quan