Tin tức

Bài viết phân tích và cảnh báo mặt hàng điện thoại và linh kiện xuất khẩu sang thị trường Canada (Quý I/2022)

Thứ Sáu, 27/10/2023


 

  1. Tình hình xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện của Việt Nam 

a. Tình hình sản xuất điện thoại và linh kiện của Việt Nam

Trong bối cảnh dịch Covid-19, xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện vẫn tăng do nhu cầu tiêu dùng gia tăng vì đây là nhóm hàng phục vụ thông tin liên lạc cũng như phương tiện làm việc khi các nước thực hiện chính sách giãn cách xã hội.

Theo Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam 2021, Năm 2021, số lượng điện thoại sản xuất trong nước đạt 233,7 triệu chiếc, tăng 7,6%; trị giá sản xuất linh kiện điện thoại đạt 580,8 nghìn tỷ đồng, tăng 29,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Trong khi đó, số liệu thống kê do hãng nghiên cứu thị trường Counterpoint Research công bố cho thấy, tiêu thụ điện thoại thông minh trên toàn cầu đã tăng 4% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 1,39 tỷ chiếc vào năm 2021. Như vậy, điện thoại di động Made-in-Vietnam chiếm tới gần 17% sản lượng tiêu thụ toàn cầu.

Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của nước ta đạt 57,5 tỷ USD, tăng 12,4% so với năm 2020 và chiếm trên 17,1% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 56,9 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2020 và chiếm gần 99,0% tổng kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước. 

Xuất khẩu nhóm hàng tăng ở nửa đầu năm nhưng tốc độ tăng giảm dần ở 6 tháng cuối năm do tác động tiêu cực của đợt dịch thứ 4 trong quý III làm ảnh hưởng đến sản xuất, xuất khẩu: giảm mạnh ở tháng 6 (giảm 9,6%) và tăng trưởng thấp ở mức 3-4% ở các tháng tiếp theo, đến tháng 11 đã có sự phục hồi xuất khẩu với mức tăng trưởng trên 21,5%. 

Xuất khẩu điện thoại di động nguyên chiếc đạt kim ngạch trên 33,1 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm 2020, chiếm 57,6% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng. Xuất khẩu linh kiện, phụ kiện điện thoại đạt trên 24,4 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2020, chiếm 42,4%.

Thị trường chính xuất khẩu điện thoại và linh kiện gồm: Hoa Kỳ, khối EU, Trung Quốc đại lục, Hàn Quốc, UAE. Tỷ trọng xuất khẩu sang 5 thị trường chính này đã chiếm khoảng 71% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.

Các thị trường xuất khẩu tăng mạnh là: Hong Kong (tăng 35,0%), UAE (tăng 26,8%), Trung Quốc đại lục (tăng 23,0%). Một số thị trường nhỏ nhưng tăng trưởng mạnh như Peru (tăng 137,6%), Pakistan (tăng 120,3%), Sri Lanka (tăng 109,3%). 

Xuất khẩu điện thoại và linh kiện tăng mạnh sang Trung Quốc chủ yếu ở mảng linh kiện điện thoại. Xuất khẩu linh kiện điện điện thoại sang Trung Quốc đạt 13,5 tỷ USD, chiếm 89,1% giá trị xuất khẩu nhóm hàng.

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, điện thoại các loại và linh kiện là mặt hàng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong năm 2021, xuất khẩu điện thoại và linh kiện cũng có những thuận lợi nhất định. 

Giống như nhóm hàng công nghiệp chủ lực như linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử, trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện vẫn tăng do nhu cầu tiêu dùng gia tăng vì đây là nhóm mặt hàng phục vụ thông tin liên lạc cũng như phương tiện làm việc khi các nước thực hiện chính sách giãn cách xã hội và người lao động bắt buộc phải làm việc tại nhà do dịch Covid-19.

Năm 2021 xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện đạt 57,54 tỷ USD, tăng 12,4% so với năm 2020. Trong đó, xuất khẩu điện thoại và linh kiện sang thị trường Trung Quốc đạt 15,18 tỷ USD, tăng 23%; sang thị trường Mỹ đạt trị giá 9,69 tỷ USD, tăng 10,3%; sang EU (27 nước) đạt 7,89 tỷ USD, giảm 9,1%... so với năm trước.

Cụ thể, xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường Trung Quốc đạt 15,18 tỷ USD, tăng 23%; sang thị trường Mỹ đạt trị giá 9,69 tỷ USD, tăng 10,3%; sang EU (27 nước) đạt 7,89 tỷ USD, giảm 9,1%... so với năm trước. Trong khi đó, nhóm mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện xuất khẩu đạt 50,83 tỷ USD trong năm 2021, tăng 14% so với năm 2020. Xuất khẩu điện thoại và các loại linh kiện tiếp tục giữ vị thế dẫn đầu các nhóm hàng. Nếu như năm 2010, xuất khẩu điện thoại và linh kiện mới chỉ đạt 2,3 tỷ USD thì 5 năm sau đó đã tăng thêm 13 lần, đạt 30,2 tỷ USD và liên tục tăng trưởng. Tính đến nay kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm này đã tăng 25 lần so với năm 2010. 

b. Tình hình xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam

    Tháng 12/2021, xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam ước đạt trên 5,61 tỷ USD, tăng 4,97% so với tháng trước còn so với tháng 12/2020 tăng 21,87%. Tính đến hết năm 2021, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước đạt 57,53 tỷ USD, tăng 12,41% so với năm 2020 và chiếm trên 17,11% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Trong tháng 12/2021, xuất khẩu điện thoại và linh kiện của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 5,37 tỷ USD, tăng 0,75% so với tháng trước, so với tháng 12/2020 tăng 20,34%, chiếm 95,76% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong tháng. Lũy kế năm 2021, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 56,93 tỷ USD, tăng 13,81% so với năm 2020 và chiếm 98,96% tổng kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước. Cũng trong tháng 12/2021, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của điện thoại Việt Nam với kim ngạch đạt 1,61 tỷ USD, giảm 6,29% so với tháng trước. Thị trường Hoa Kỳ đạt trên 955,4 triệu USD, tăng 10,45%. Đứng thứ 3 là EU đạt 787,45 triệu USD, giảm 0,23% so với tháng 11/2021.

Tính đến hết năm 2021, các thị trường chính xuất khẩu điện thoại và linh kiện của nước ta gồm có: Hoa Kỳ, Khối EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, UAE. Tỷ trọng xuất khẩu sang 5 thị trường chính này đã chiếm tới trên 70,54% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Nếu như năm 2010, xuất khẩu điện thoại và linh kiện mới chỉ chiếm 3,2% tổng kim ngạch xuất khẩu thì đến năm 2015 chiếm 18,7% và luôn duy trì mức trên dưới 20% từ đó đến nay (năm 2016 chiếm 19,5%, năm 2017 chiếm 21,2%; năm 2018 chiếm 20,3%; năm 2019 chiếm 19,4% và năm 2020 chiếm 18,1%). Xuất khẩu điện thoại và linh kiện dẫn đầu trong 6 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD của Việt Nam là: Điện thoại và linh kiện; điện tử, máy vi tính và linh kiện; dệt may; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng; giầy dép; gỗ và sản phẩm gỗ

Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện từ năm 2010 mới chỉ đạt 2,3 tỷ USD. Nhưng đến 2015, giá trị xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 30,2 tỷ USD, tăng 1304%, là mức tăng trưởng cực kì ấn tượng sau 5 năm. Từ 2015 đến 2016, giá trị xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 34,5 tỷ USD, tăng 14,2% . Năm 2017, giá trị xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 45,6 tỷ USD, tăng 32,1%. Năm 2019, giá trị xuất khẩu mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 51,4 tỷ USD, tăng 3,8%. Năm 2020, giá trị xuất khẩu điện thoại và linh kiện tăng 51,2%.

Biểu đồ 1: Trị giá xuất khẩu điện thoại và linh kiện điện thoại của Việt Nam 

Nguồn: Tổng cục Hải quan 

    Có nhiều yếu tố tác động đến việc xuất khẩu các mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện trong giai đoạn từ 2018 đến 2021. Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc khởi đầu vào ngày 22 tháng 3 năm 2018 khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 50 tỷ đô la Mỹ cho hàng hóa Trung Quốc dựa theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974. Ngành sản xuất điện tử, điện thoại có nhiều cơ hội đón làn sóng đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn dịch chuyển sang Việt Nam. Hiện nay Samsung là tập đoàn sản xuất điện tử, điện thoại lớn nhất của nước ta. Doanh thu và sản lượng toàn cầu của Samsung giảm mạnh trong năm 2020 và dự báo tiếp tục giảm trong năm 2021 do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới, trong đó có ngành điện tử. Dù vậy, ngành sản xuất điện tử, điện thoại của Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định và từng bước phục hồi. Đây là những tín hiệu đáng mừng, dự báo một năm tăng trưởng mạnh mẽ của ngành điện tử và đem lại nhiều đóng góp lớn cho quá trình khôi phục và đạt mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2021.

Trong vài năm trở lại đây, điện tử đã trở thành ngành công nghiệp trọng yếu của nền kinh tế, do đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng cần có kế hoạch phát triển dài hạn, có sự quan tâm đầu tư, xem xét ưu đãi hỗ trợ đầu tư đối với các doanh nghiệp; hỗ trợ cho các công đoạn nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm sản phẩm và các chương trình xúc tiến thương mại; rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là quy định cụ thể về hàng hóa xuất xứ Việt Nam; thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. 

    a. Đặc điểm thị trường tiêu thụ điện thoại tại Canada

Canada là một thị trường tiêu thụ điện thoại di động khá lớn. Hàng năm, Canada nhập khẩu trung bình từ 5.5-6.5 tỷ USD; thị trường có nhu cầu nhập khẩu ổn định và có mức tăng trưởng doanh số mỗi năm khoảng 1.2%.

Mặc dù vậy, tỷ lệ sở hữu điện thoại trên đầu người của Canada không quá cao: 0.3/người, có nghĩa là hiện nay, Canada mới có khoảng 12.6 triệu máy do cước phí điện thoại di động và dữ liệu di động ở Canada vào loại cao nhất thế giới – là rào cản tiêu dùng điện thoại di động ở đây. Hiện nay ở Canada có 86% hộ gia đình Canada sở hữu ít nhất 1 máy điện thoại di động. Điều tra cho thấy 70% chủ thuê bao di động Canada sử dụng dữ liệu di động thường xuyên và 42% sử dụng điện thoại để truy cập các mạng xã hội. 95% thanh niên thế hệ 2000s sở hữu điện thoại di động. Đây là cơ sở để ước tính nhu cầu sở hữu điện thoại di động sẽ tăng lên trong vòng 5 năm tới với mức tăng trưởng số lượng máy khoảng 5.1%/năm. Dự kiến, đến năm 2025 sẽ có 33 triệu người thuê bao di động và đến năm 2027, Canada sẽ có trên 14 triệu máy điện thoại di động.

Hiện nay thị phần điện thoại di động lớn nhất thuộc về Apple với 58.5%. Sámung đứng thứ hai với 28.5%. Đứng thứ ba là Google với 3%; các thương hiệu khác như LG, Huawei, Motorola có thị phần không đáng kể, cộng gộp khoảng 5%. Thị phần của Apple không ngừng tăng lên qua các năm (năm 2020 mới có 53%) do thế hệ trẻ Canada ưa chuộng Apple hơn hẳn các thương hiệu khác (62% thanh niên thế hệ 2000s sở hữu Apple). Dự báo, hai thương hiệu này sẽ thống trị và lấn dần thị phần của các thương hiệu khác, đặc biệt là của Huawei.    

b. Xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam sang Canada

Bảng 1: Số liệu nhập khẩu điện thoại di động của Canada (mã HS 851712)

Nguồn: Bộ Công Thương

Thị trường nhập khẩu điện thoại di động của Canada khá tập trung, với 10 đối tác chính chiếm trên 99% thị phần. Mười đối tác xuất khẩu điện thoại di động nhiều nhất vào Canada năm 2021 lần lượt là: Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc,  Hoa Kỳ, Hongkong, Thái Lan, Tây Ba Nha, Đài Loan, Mexico, Anh. Năm 2018, Trung Quốc chiếm tới 81% thị phần điện thoại di động của Canada, trong khi đó Việt Nam đứng thứ ba chỉ chiếm 7%, sau Hàn Quốc (10%). Do Hàn Quốc đã chuyển dịch gần như toàn bộ chuỗi sản xuất Sámsung sang Việt Nam để tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ và mạng lưới các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam, vì vậy, đến 2021, thị phần của Việt Nam tại địa bàn đã tăng lên 17%, trong khi của Trung Quốc giảm xuống còn 79%, và của Hàn Quốc giảm xuống còn 2%. 7 nước khác xuất khẩu vào Canada không đáng kể. 

Xét giá trị tuyệt đối, năm 2021, Trung Quốc là nước xuất khẩu nhiều nhất vào Canada, với gần 5 tỷ USD. Việt Nam đứng thứ hai với 1.068 tỷ USD. Hiện nay, điện thoại di động là sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam vào Canada. Cần lưu ý là cách đây 10 năm, Việt Nam chưa từng xuất khẩu mặt hàng này vào Canada, đến năm 2014, giá trị xuất khẩu mới là 47 triệu USD và năm 2018 là 432 triệu đô. Tính trong giai đoạn 2018-2022, tốc độ tăng trưởng kim ngạch mặt hàng đạt 147%. Dự báo năm 2022, kim ngạch điện thoại di động sang địa bàn sẽ ở mức quanh 8%, ước tính cả năm kim ngạch xuất khẩu vào Canada sẽ đạt 1.15 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch và thị phần điện thoại di động của Việt Nam tại Canada cho thấy hiệu ứng tích cực của hiệp định CPTPP mang lại. 

Về tiềm năng, thị trường điện thoại di động Canada là thị trường có nhu cầu tăng ổn định. Khi chi phí thuê bao và dữ liệu rẻ hơn nữa, nhu cầu tiêu thụ điện thoại di động ở thị trường này chắc chắn sẽ còn tăng đột biến. Mặc dù người dân Canada ưa chuộng các sản phẩm của Apple hơn hẳn Samsung, có thể thị phần xuất khẩu của Việt Nam trong mảng di động tại địa bàn sẽ khó cạnh tranh thêm với Trung Quốc nhưng chắc chắn, kim ngạch xuất khẩu điện thoại di động của Việt Nam sang Canada sẽ vẫn giữ vững mốc trên 1 tỷ USD.

Điện thoại di động đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tại Canada, chiếm gần 14% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang địa bàn (theo số liệu sở tại). Tuy nhiên, đây là mặt hàng gia công cho thương hiệu nước ngoài, phụ thuộc hoàn toàn vào chiến lược sản xuất và đầu tư của nhà đầu tư FDI. Nếu Việt Nam thu hút được Apple chuyển dịch một phần chuỗi sản xuất từ Trung Quốc, triển vọng gia tăng kim ngạch và thị phần của Việt Nam sẽ là chắc chắn. Ngược lại, nếu các lợi thế níu giữ đầu tư không còn, khiến các nhà đầu tư FDI chuyển dịch chuỗi sản xuất đi nơi khác, Việt Nam sẽ mất đi mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Vì vậy, chúng ta cần phải có chiến lược chuẩn bị để xây dựng hệ sinh thái sản xuất hỗ trợ cho lĩnh vực điện thoại di động, từ phần mềm trò chơi cho đến các phụ tùng, phụ kiện đi theo điện thoại. Nghiên cứu ở Canada cho thấy, giới trẻ sử dụng điện thoại di động Apple thường mua ít nhất 5-8 phụ kiện điện thoại kèm theo. Đây là thị trường mà các doanh nghiệp nội địa Việt Nam hoàn toàn có năng lực tham gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cần cải thiện năng lực và chất lượng, kỷ luật lao động; nâng cao năng lực liên kết và tham gia chuỗi cung ứng FDI về mặt công nghệ và cung ứng linh kiện để đảm bảo giữ chân các nhà đầu tư, đồng thời hưởng lợi nhiều hơn trong giá trị xuất khẩu.

    2. Tình hình xuất khẩu quý I năm 2022 và thông tin cảnh báo mặt hàng điện thoại và linh kiện của Việt Nam sang thị trường Canada

    a. Tình hình xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam quý I năm 2022

Trong quý I năm 2022 điện thoại và linh kiện điện tử có giá trị xuất khẩu lớn nhất, đạt 14,23 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu...

Điện thoại, linh kiện và mặt hàng điện tử là các sản phẩm công nghiệp chủ lực và cũng là những nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam bất chấp những ảnh hưởng tiêu cực do dịch Covid-19.

Số liệu của Bộ Công Thương cho thấy, trong quý 1/2022 điện thoại và linh kiện điện tử có giá trị xuất khẩu lớn nhất, đạt 14,23 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 13,05 tỷ tăng 9,2%.

Lĩnh vực điện tử tại Việt Nam ngày càng thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này. Nhiều hãng điện tử lớn trên thế giới đã đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ cao ở Việt Nam như Samsung, LG, Foxconn, Fukang Technology, LG Display Hải Phòng.

Hiện nay tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng máy vi tính và linh kiện điện tử đã vượt qua dệt may trở thành nhóm hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ 2 của Việt Nam kể từ năm 2019 đến nay.

Bộ Công Thương đánh giá, xuất khẩu máy tính, điện tử và linh kiện đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Để hoạt động xuất khẩu của nhóm hàng này phát triển bền vững rất cần các giải pháp hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý trong việc xem xét ưu đãi, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trong các công đoạn nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm sản phẩm.

Cần đòn bẩy từ các chương trình xúc tiến thương mại, đổi mới quy trình xúc tiến thương mại cho phù hợp với tình hình mới. Thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực.

Đồng thời, tăng cường vai trò, hiệu quả của các cơ quan đại diện thương mại, của các hiệp hội ngành nghề trong xúc tiến thương mại; tìm kiếm cơ hội kinh doanh và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là quy định cụ thể về hàng hóa xuất xứ Việt Nam. Có kế hoạch phát triển dài hạn, chú trọng tới sản phẩm cốt lõi, có sức đột phá; đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu; có chiến lược cạnh tranh, tham gia nhiều hơn nữa trong chuỗi giá trị toàn cầu. Có chính sách hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực…

    b. Một số thông tin cảnh báo    

    Ngày 14 tháng 1 năm 2019, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là Hiệp định CPTPP) chính thức có hiệu lực đã mở ra cơ hội to lớn để tăng cường thương mại song phương cho nhiều quốc gia thành viên tham gia Hiệp định, trong đó có Việt Nam và Canada. Là nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới về GDP, thứ 12 về xuất khẩu và thứ 13 về nhập khẩu năm 2019, Canada đã và đang trở thành một đối tác thương mại tiềm năng của Việt Nam. Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực mang một ý nghĩ to lớn về thương mại giữa hai quốc gia, và càng có ý nghĩa hơn khi đây chính thức là hiệp định thương mại tự do đầu tiên nối liền nền kinh tế của Việt Nam và Canada. Bên cạnh đó, các mặt hàng có tăng trưởng xuất khẩu nhanh, dù kim ngạch lớn hay nhỏ có thể trở thành mục tiêu bị điều tra PVTM nếu ngành sản xuất nội địa của Hàn Quốc cho rằng hàng nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất nội địa. Ngoài ra, các doanh nghiệp dù đã hết bị áp thuế PVTM cũng có thể trở thành mục tiêu của một cuộc điều tra mới nhằm bảo đảm hiệu quả của các biện pháp trước đây. Vì vậy, các sản phẩm đã bị điều tra, áp dụng một trong các biện pháp PVTM vẫn có thể tiếp tục bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM khác.

Với lợi thế nguồn nhân công rẻ, thị trường sản xuất điện thoại và linh kiện đang ngày càng phát triển, cùng với hoạt động nhập khẩu các sản phẩm điện tử nói trên từ Trung Quốc của Việt Nam lại càng gia tăng nhanh chóng. Do vậy, điện thoại và linh kiện của Việt Nam trong tương lai sẽ có nguy cơ bị kiện phòng vệ thương mại là điều có thể lường trước. 

Tính đến hết tháng 02 năm 2022, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã là đối tượng của 210 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài. Hoa Kỳ là quốc gia điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, với tổng số 41 vụ việc bao gồm: 21 vụ điều tra chống bán phá giá, 8 vụ điều tra chống trợ cấp, 10 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại và 2 vụ điều tra tự vệ. Hàng hóa trong các vụ kiện này rất đa dạng, từ nông sản (tôm, cá, mật ong, gỗ) cho đến hóa chất (túi nhựa), kim loại (nhôm, thép các loại) và các sản phẩm công nghiệp (pin mặt trời, máy giặt, máy cắt cỏ...). . Những vụ kiện này không chỉ gây tác động đến doanh nghiệp chế biến xuất khẩu mà kéo theo đó là đời sống của hàng vạn lao động trong các hộ nông dân cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy.

Trong khi đó, tính từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/2021, Canada đã tiến hành khởi xướng điều tra 360 vụ việc phòng vệ thương mại, trong đó có 279 vụ việc chống bán phá giá, chiếm 78% tổng số vụ việc khởi xướng; 77 vụ việc chống trợ cấp, chiếm 21% tổng số vụ việc khởi xướng và 04 vụ việc tự vệ, chiếm 1% tổng số vụ việc. Trong tổng số 360 vụ việc khởi xướng, cơ quan điều tra của Canada áp dụng chính thức 229 biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước này. Cụ thể, 188 thuế chống bán phá giá được áp dụng, chiếm 82% tổng số biện pháp PVTM được áp dụng chính thức; 40 vụ việc bị áp thuế chống trợ cấp chính thức, chiếm 17%; và 01 vụ việc tự vệ bị áp dụng lên hàng hóa nhập khẩu vào Canada (Biểu đồ 2). 

Cụ thể, các mặt hàng nhập khẩu vào Hàn Quốc như hóa chất, giấy, kim loại và sản phẩm điện tử thường xuyên bị khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại. Biện pháp chống bán phá giá cũng là công cụ được sử dụng nhiều nhất trong số các biện pháp phòng vệ thương mại mà Hàn Quốc sử dụng điều tra hàng hóa nhập khẩu vào nước này. Trong đó, sản phẩm hóa chất với 43 vụ việc, chiếm 25,75% tổng số vụ việc khởi xướng điều tra chống bán phá giá; sản phẩm giấy với 22 vụ việc, chiếm 13,17%; kim loại có 24 vụ việc, chiếm 14%; sản phẩm điện tử có 22 vụ, chiếm 13% (Biểu đồ 4).

Biểu đồ 4: Số lượng vụ việc Canada khởi xướng điều tra và áp dụng  biện pháp phòng vệ thương mại giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2021

    ĐVT: Vụ việc

    Nguồn: WTO

 

Trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2021, Canada đã tiến hành điều tra và áp dụng 17 vụ PVTM đối với Việt Nam (bao gồm 10 vụ chống bán phá giá, 5 vụ chống trợ cấp và 2 vụ tự vệ) . Trong tổng số 10 đối tác CPTPP, tính đến hết năm 2021 chỉ có 4 thành viên gồm: Australia, Canada, Malaysia, Mexico đã từng điều tra, áp dụng biện pháp PVTM với hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam. Số vụ việc mà Canada khởi xướng hàng hóa của Việt Nam chiếm 40% tổng số vụ việc mà các nước thành viên CPTPP khởi xướng điều tra biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam điều tra PVTM chủ yếu là sản phẩm thép.

Tuy hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là điện thoại và linh kiện chưa phải là đối tượng mà phía Canada khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại thường xuyên, nhưng có thể thấy trong bối cảnh các tác động tích cực của các hiệp định thương mại tự do tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian qua. Cộng thêm với yếu tố sản phẩm điện tử nhập khẩu vào Canada là một trong những đối tượng bị khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất tại quốc gia này. Do vậy, chúng ta phải thường xuyên cập nhật, phân tích tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam trong thời gian tới. 

 

Bài viết liên quan