Tin tức

Bài viết phân tích và cảnh báo mặt hàng điện thoại và linh kiện xuất khẩu sang thị trường Canada (Quý II năm 2022)



1. Tình hình xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam quý II năm 2022

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của nước ta đạt 29,17 tỷ USD, tăng 16,44% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm trên 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong 6 tháng đầu năm 2022. Tháng 6/2022, xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam ước đạt trên 4,39 tỷ USD, tăng 6,52% so với tháng tháng 5/2022 còn so với cùng kỳ năm 2021 tăng 33,31%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam đạt 29,17 tỷ USD, tăng 16,44% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm trên 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong 6 tháng đầu năm 2022.

Trong tháng 6/2022, xuất khẩu điện thoại và linh kiện của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 4,37 tỷ USD, tăng 6,56% so với tháng 5/2022, so với tháng 6/2021 tăng 34,28%, chiếm 99,65% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong tháng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của khối doanh nghiệp FDI đạt trên 29,09 tỷ USD, tăng 17,15% so với 6 tháng đầu năm 2021 và chiếm 99,73% tổng kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước.

Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện

ĐVT: Triệu USD

Nguồn: Tổng cục Hải Quan

- Thị trường xuất khẩu: Tháng 6/2022, Hoa Kỳ là thị trường chính của điện thoại Việt Nam đạt trị giá 1,29 tỷ USD, tăng 15,08% so với tháng 5/2022. Thị trường Trung Quốc đạt trị giá trên 840,74 triệu USD, giảm 3,01% so với tháng 5/2022. Đứng thứ 3 là thị trường EU đạt 551,35 triệu USD, tăng 55,12% so với tháng 6/2022.

Ba năm gần đây nhất, từ 2019 đến 2021, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đều vượt 50 tỷ USD, lần lượt là 51,374 tỷ USD, 51,184 tỷ USD và 57,54 tỷ USD. Duy chỉ năm 2020, xuất khẩu sụt giảm nhẹ 0,4% so với 2019, do ảnh hưởng của năm đại dịch Covid-19 đầu tiên.

Với giá trị xuất khẩu lớn, việc tăng hay giảm của điện thoại, linh kiện đều tác động ngay đến tổng kim ngạch xuất khẩu. Chẳng hạn, nếu duy trì mức tăng trưởng như năm 2021, ngành này có thể đóng góp thêm gần 7 tỷ USD vào doanh số xuất khẩu của cả nước trong năm nay, ngược lại, nếu có sự suy giảm cũng khiến xuất khẩu chịu ảnh hưởng theo.

Trong bối cảnh Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nhưng mảng điện thoại và linh kiện trong năm qua tiếp tục thể hiện là điểm sáng nhất trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong đó, điện thoại nguyên chiếc xuất khẩu chủ yếu sang Hoa Kỳ, Trung Quốc và EU. Riêng 3 thị trường này đã chiếm đến trên 55% thị phần kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của nước ta.

Hiện nay phần lớn thành công của ngành hàng công nghệ là nhờ khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cũng nhờ vậy, thị phần điện thoại thông minh của Việt Nam trên toàn cầu đã tăng đáng kể. Mặc dù, hơn 50% điện thoại thông minh trên thế giới được sản xuất tại Trung Quốc, Việt Nam đã giành 13% thị phần, nhanh chóng vươn lên vị trí nước xuất khẩu điện thoại thông minh lớn thứ hai trên thế giới.

Tuy nhiên, xuất khẩu điện thoại và linh kiện gặp một số khó khăn do vấn đề về chuỗi cung ứng. Tác động tiêu cực của dịch bệnh dẫn tới tình trạng thiếu chip bán dẫn trên toàn cầu. Điều này đã ảnh hưởng đến sản xuất nhóm hàng điện thoại nói chung và các mặt hàng có sử dụng chip nói riêng.

 

Bảng 1: Thị trường xuất khẩu mặt hàng điện thoại và linh kiện

Thị trường

Tháng 6/2022  
(Triệu USD)

So T5/2022 
(%)

So T6/2021 (%)

6T/2022  
(Triệu USD)

So 6T/2021 (%)

Tỷ trọng 6T/2022 (%)

Tổng KN

4.391,58

6,52

33,31

29.171,25

16,44

100

Khối DNFDI

4.376,16

6,56

34,28

29.092,36

17,15

99,73

FTA RCEP

1.473,26

-8,99

25,13

11.336,09

20,99

38,86

FTA CPTTP

387,15

0,91

45,76

2.867,35

31,53

9,83

FTA Liên minh kinh tế Á - Âu

0,58

-82,47

-99,11

141,94

-71,65

0,49

Hoa Kỳ

1.294,26

15,08

117,43

6.609,92

53,66

22,66

Trung Quốc

840,74

-3,01

21,34

6.446,46

16,55

22,1

Khối EU

551,35

55,12

12,94

3.088,60

-8,73

10,59

-Áo

140,43

28,08

2,11

1.002,25

-7,81

3,44

-Đức

80,42

42,39

-8,52

474,79

1,66

1,63

-Hà Lan

99,09

68,45

35,06

367,96

-20,24

1,26

-Pháp

56,69

67,69

56,96

277,57

-1,64

0,95

-Italy

36,13

41,92

-14,32

238,13

-26,87

0,82

-Tây Ban Nha

23,04

47,87

-44,81

233,62

-22,19

0,8

-Thụy Điển

69,81

209,48

65,45

217,05

-9,62

0,74

-Slovakia

17,35

4,57

383,36

115,91

83,74

0,4

-Bồ Đào Nha

11,81

60,24

-8,33

86,75

14,19

0,3

-Hy Lạp

13,79

66,08

39,19

67,71

-9,77

0,23

-Séc

2,33

865,94

772,45

3,84

94,94

0,01

-Romania

0,07

-82,37

-73,79

1,74

-4,04

0,01

-Hungary

0,38

129,04

83,02

1,27

-47,11

0

Hàn Quốc

362,58

-17,86

15,07

2.782,52

29,77

9,54

UAE

151,61

-3,56

-16,19

1.410,84

-6,59

4,84

Hồng Kông (TQ)

239,14

37,22

11,72

1.073,77

-23,06

3,68

Khối Asean

134,67

-3,88

79,25

1.050,74

24,2

3,6

Thái Lan

57,9

2,77

64,86

466,23

15,71

1,6

Malaysia

25,58

-15,45

124,03

197,23

59,94

0,68

Singapore

22,24

26,8

102,4

149,56

21,13

0,51

Philippines

10,08

-53,99

15,68

129,59

34,39

0,44

Indonesia

18,63

32,53

110,41

106,44

15,81

0,36

Campuchia

0,24

 

 

1,6

7,03

0,01

Myanmar

0

 

-100

0,1

-98,43

0

Ấn Độ

70,86

-18,69

6,73

859,95

38,04

2,95

Nhật Bản

88,91

-4,53

48,46

538,68

29,66

1,85

Anh

96,13

102,43

-21,94

492,9

-26,84

1,69

Canada

97,67

82,01

14,84

466,2

16,14

1,6

Mexico

68,38

48,67

246,8

452,43

102,6

1,55

Australia

39,99

-37,89

68,42

407,84

22,92

1,4

Chile

22,11

-57,43

-27,85

398,79

21,56

1,37

Brazil

33,01

-40,96

53,37

352,15

42,54

1,21

Achentina

22,74

-55,87

-21,82

352,09

30,58

1,21

Thổ Nhĩ Kỳ

33,45

-23,02

133,5

216,49

16,75

0,74

Nam Phi

13,91

-50,79

-33,23

200,64

-3,67

0,69

Đài Loan (TQ)

18,6

18,7

117,35

196,78

35,38

0,67

Colombia

25,53

-19,66

40,57

193,12

36,3

0,66

Israel

16,15

-10,93

-12,78

181,85

-7,87

0,62

Pê Ru

15,88

14,47

17,33

146,77

11,2

0,5

Pakistan

0,52

-95,67

-71,95

145,61

765,26

0,5

Nga

0,58

-82,47

-99,11

141,94

-71,65

0,49

New Zealand

6,38

-50,49

-39,92

109,86

8,59

0,38

Panama

11,77

17,25

119,7

83,1

77,07

0,28

Ả Rập Xê Út

48,47

81,91

 

75,57

1.253,46

0,26

Bangladesh

7,01

-54,59

32,65

74,25

4,6

0,25

Ukraine

1,21

 

-84,77

21,59

-68,26

0,07

Sri Lanka

0,04

 

-99,42

5,58

-87,79

0,02

Nigeria

0,72

-47,68

-19,71

4,79

-33,07

0,02

Ai Cập

1,59

 

-53,78

4,6

-59,6

0,02

Kenya

0,12

17,48

76,25

0,59

4,97

0

Nguồn: Tổng cục Hải Quan

- Mặt hàng xuất khẩu: Tháng 6/2022, xuất khẩu điện thoại di động nguyên chiếc đạt trên 2,86 tỷ USD, so với tháng 5/2022 tăng 10,63%, so với cùng kỳ năm 2021 tăng 47,79%; trong tháng 6/2022 điện thoại nhãn hiệu Samsung xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhất đạt trên 2,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng trên 90% kim ngạch xuất khẩu chủng loại này. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu điện thoại nguyên chiếc đạt 18,72 tỷ USD, tăng 24,27% so với 6 tháng năm 2021.

Bảng 2: Tham khảo một số mặt hàng điện thoại nguyên chiếc xuất khẩu

Mặt hàng

Tháng 6/2022

(Triệu USD)

So T5/2022 (%)

So T6/2021 (%)

6T/2022

(Triệu USD)

So tháng 6T/2021 (%)

Tổng

2.863,75

10,63

47,79

18.722,43

24,27

Điện thoại Samsung

2.506,97

2,73

36,25

17.881,99

27,14

Điện thoại Nokia

22,3

44,15

-17,33

99,85

-38,95

Điện thoại Xiaomi

4,18

-14,75

-37,57

14,15

-46,71

Điện thoại Oppo

0,12

 

-5,91

0,24

-74,09

Điện thoại Iphone

0,05

-49,58

-94,63

0,85

-83,56

Điện thoại Vivo

 

 

 

0,79

413

Loại khác

330,13

167,38

425,23

710,32

60,91

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Trong tháng 6/2022 xuất khẩu linh kiện, phụ kiện điện thoại đạt trên 1,52 tỷ USD, so với tháng 5/2022 giảm 0,43% và tăng 12,62% so với cùng kỳ năm 2021. Tính đến hết 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu linh kiện, phụ kiện điện thoại đạt trên 10,44 tỷ USD, tăng 4,62% so với 6 tháng đầu năm 2021.

Bảng 3: Tham khảo một số mặt hàng linh kiện điện thoại xuất khẩu

Mặt hàng

Tháng 6/2022

(Triệu USD)

So T5/2022 (%)

So T6/2021 

(%)

6T/2022

(Triệu USD)

So tháng 6T/2021 (%)

Tổng

1.527,83

-0,43

12,62

10.448,82

4,62

Linh kiện điện thoại Samsung

20,53

-17,69

-44,06

137,56

-64,27

Linh kiện điện thoại Asus

0,04

15,24

-69,17

0,24

-68,28

Linh kiện điện thoại Iphone

0,01

446,11

251,25

0,02

-63,19

Linh kiện điện thoại Motorola

 

 

 

0,01

210,19

Linh kiện điện thoại Huawei

 

 

 

0,01

-93,79

Linh kiện điện thoại Nokia

 

 

 

0,03

-49,28

Linh kiện điện thoại Sony

 

 

 

0,01

-99,47

Loại khác

1.507,24

-0,07

14,41

10.301,18

7,8

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Tình hình nhập khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam từ thị trường Hàn Quốc và Trung Quốc chiếm hơn 90%

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu điện thoại của Việt Nam đạt 10,27 tỷ USD, tăng 13,48% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm trên 5,55% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của cả nước. Trong đó, Việt Nam nhập khẩu điện thoại và linh kiện chủ yếu từ 2 thị trường là Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm tới 90,95% tổng kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước.

rong nửa đầu năm 2022, kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện của Việt Nam chủ yếu từ 2 thị trường là Trung Quốc và Hàn Quốc chiếm tới 90,95% tổng kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước. Trong đó nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 5,1 tỷ USD, tăng 28,325% so với cùng kỳ năm 2021; nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 4,24 tỷ USD, giảm 0,12%.

Ngoài ra, Việt Nam còn nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện từ các thị trường khác như: thị trường Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Anh, Hoa Kỳ và Thụy Điển.

2. Một số thông tin cảnh báo    

Có thể thấy, 6 tháng đầu năm 2022 kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của nước ta đạt 29,17 tỷ USD, tăng 16,44% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm trên 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta trong 6 tháng đầu năm 2022. Trong khi đó, nhập khẩu điện thoại của Việt Nam đạt 10,27 tỷ USD, tăng 13,48% so với cùng kỳ năm 2021. 

Có thể hoạt động xuất nhập khẩu mặt hàng này của nước ta rất mạnh mẽ. Đáng chú ý, Việt Nam chi gần 4,24 tỷ USD để nhập khẩu điện thoại và linh kiện từ Trung Quốc. 

Thời gian gần đây, số lượng các vụ việc, chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ nhằm vào hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Vì vậy, các chuyên gia thương mại cho rằng, cần phải có giải pháp hữu hiệu để giải quyết bài toán lẩn tránh bất hợp pháp trong phòng vệ thương mại, nhất là khi Việt Nam ngày càng tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA).

 Nguy cơ hàng hóa “đội lốt” hàng Việt Nam ngày càng gia tăng. Vài năm trở lại đây, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thường xuyên bị khiếu nại ở nhiều thị trường quốc tế, phải chống chọi gay gắt với hàng rào phòng vệ thương mại. Số vụ việc chống lẩn tránh điều tra, chống phá giá, chống trợ cấp đối với hàng Việt ngày càng gia tăng.

Theo đánh giá của các chuyên gia, một trong những nguyên nhân chính là do các thị trường nhập khẩu cho rằng hàng hóa Việt Nam sử dụng nguyên liệu chính được nhập khẩu từ những khu vực đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.

Tại Việt Nam, các vụ việc nước ngoài khởi xướng điều tra lẩn tránh thuế hàng hóa xuất khẩu thuộc trường hợp hàng hóa của nước đang bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại chuyển tải sang Việt Nam để lấy xuất xứ Việt Nam nhằm lẩn tránh thuế.

Ngoài ra, không ít trường hợp hàng hóa của nước ngoài lấy xuất xứ Việt Nam để hưởng thuế suất ưu đãi theo các FTA hoặc các quy định ưu đãi thuế quan.

Thực tế cho thấy, từ khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung xảy ra, hàng Trung Quốc nhằm né cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ đã lợi dụng xuất xứ Việt Nam để xuất khẩu gia tăng mạnh.

Hơn thế nữa, Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho biết, Việt Nam với việc “mở cửa” mạnh mẽ thông qua các Hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ khiến nguy cơ chuyển tải hàng hoá bất hợp pháp, gian lận xuất xứ ngày càng gia tăng mạnh.

Đặc biệt, vài năm trở lại đây, Chính phủ và các Bộ ngành đã tạo cơ hội cho doanh nghiệp mở rộng phát triển thị trường, gia tăng xuất khẩu qua việc áp dụng tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Đây là cơ chế“mở” có rất nhiều ưu điểm và mang lại nhiều lợi ích bởi các doanh nghiệp sẽ tự thực hiện các thủ tục và đáp ứng điều kiện để tuyên bố hàng hóa đáp ứng tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ và chịu trách nhiệm về tính chính xác của tuyên bố đó. Tuy nhiên, điều này cũng làm gia tăng nguy cơ gian lận xuất xứ, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín hàng Việt và tác động tiêu cực đến nền sản xuất trong nước. Vì vậy, nếu không kiểm soát hiệu quả nguồn gốc xuất xứ hàng hóa thì nguy cơ giả mạo hàng Việt Nam để xuất khẩu vào thị trường “ruột” của Việt Nam là rất lớn.

Theo thông tin từ Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tính đến hết tháng 6/2022, các nước đã tiến hành 214 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2022, đã có 12 vụ việc điều tra mới đối với các sản phẩm sắt thép, tủ gỗ, pin năng lượng mặt trời..., trong đó có 7 vụ việc điều tra chống lẩn tránh.

Đáng chú ý, Cục Phòng vệ thương mại cho biết, không chỉ những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như gỗ, cá tra, cá basa, tôm, da giày, dệt may, thép…, mà các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn như mật ong, máy cắt cỏ, giấy bọc thuốc lá... cũng đã bị điều tra phòng vệ thương mại. Hơn nữa, phạm vi điều tra phòng vệ thương mại cũng mở rộng.

 

 

Bài viết liên quan