1. Tình hình sản xuất điện thoại và linh kiện 9 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam
Trong tháng 9, Việt Nam đã sản xuất 19 triệu điện thoại di động. Sản lượng sụt giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước và tăng nhẹ so với con số 18,9 triệu của tháng 8. Tính đến hết quý III/2022, Việt Nam sản xuất 158 triệu điện thoại di động các loại với nhiều thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ...
Tại nhóm ngành công nghiệp thì điện thoại, linh kiện, các mặt hàng điện tử cũng là nhóm hàng có tỷ trọng xuất khẩu lớn khi làn sóng chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam. Điện tử là một ngành công nghiệp nhiều triển vọng trong thu hút nguồn vốn đầu tư mới.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến trong 9 tháng tiếp tục đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của hoạt động xuất khẩu với kim ngạch ước đạt 243 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 86% tổng kim ngạch xuất khẩu chung. Số liệu cho thấy, mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện tăng 10,7%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 13,3%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 38,9%.
Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng điện thoại và linh kiện mang về cho Việt Nam 57,54 tỷ USD, tăng 12,4% so cùng kỳ năm 2020. Trong khi nhóm hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện điện tử đạt gần 51 tỷ USD, tăng hơn 14% so với cùng kỳ. Việt Nam hiện đứng thứ 3 khu vực về xuất khẩu điện tử, theo Tổng cục Thống kê, 95% kim ngạch xuất khẩu thuộc khối doanh nghiệp FDI.
2. Tình hình xuất khẩu điện thoại và linh kiện 9 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, trong tháng 9 qua kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện đạt đến 4,85 tỉ đô la Mỹ, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này trong 9 tháng đầu năm nay lên 31,54 tỉ đô la Mỹ, so với con số của cùng kỳ năm ngoái là 25,52 tỉ đô la Mỹ.
Theo số liệu của cơ quan hải quan, tháng 9 rồi được xem là tháng có giá trị kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này cao trong 9 tháng đầu năm nay. Các thị trường chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện từ Việt Nam trong 9 tháng qua vẫn là EU, Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Mỹ , Đông Nam Á,...
Cũng theo số liệu cập nhật của Tổng cục Hải quan, một nhóm hàng công nghệ khác có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng mạnh trong 9 tháng qua là nhóm sản phẩm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với 18,54 tỉ đô la Mỹ, tăng 5,43 tỉ đô la Mỹ so với cùng kỳ năm ngoái. Đóng góp vào mức tăng trưởng cao của nhóm mặt hàng này là nhờ các doanh nghiệp đã thành công trong việc phát triển và mở rộng thị phần, đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước và khu vực khác như Hàn Quốc, ASEAN, Canada, Trung Quốc, Đài Loan, Nga… bên cạnh việc duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu sang các thị trường truyền thống Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản.
Như vậy, trong hơn 154 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất khẩu của 9 tháng đầu năm nay của Việt Nam, 2 nhóm mặt hàng là điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đóng góp nhiều nhất, chiếm gần 1/3 (hơn 50 tỉ đô la Mỹ) tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bộ Công Thương đưa ra dự báo, trong những tháng cuối năm, xuất khẩu mặt hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện vẫn có khả năng tăng trưởng do dự án Samsung Display (được tăng vốn đầu tư trong những tháng đầu năm 2017) đã có sản phẩm xuất khẩu ngay từ những tháng cuối năm 2017.
Theo dữ liệu của Tổng cục Hải quan công bố vào ngày 9 tháng 10 rồi, một số nhóm hàng xuất nhập khẩu chủ lực của tháng 9 có kim ngạch thực tế chênh lệch lớn so với ước tính trước đó. Trong đó, điện thoại và linh kiện xuất khẩu cao hơn dự báo 550 triệu đô la Mỹ. Hay mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện nhập khẩu cao hơn ước tính khoảng 150 triệu đô la Mỹ,...
3. Một số thông tin cảnh báo
Đồng thời, các vụ điều tra “kép” tăng lên. Trong đó, nếu trước đây chỉ có Hoa Kỳ thường điều tra “kép” đối với Việt Nam (điều tra cả hành vi trợ cấp và hành vi bán phá giá trong cùng một vụ việc) thì hiện nay rất nhiều nước như Ấn Độ, Canada, Australia cũng chuyển sang điều tra kép đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các cuộc điều tra này thường tạo ra gánh nặng lớn với cả cơ quan quản lý và các doanh nghiệp, hiệp hội liên quan do lượng dữ liệu, thông tin phải cung cấp phải tăng lên gấp đôi trong cùng một khoảng thời gian như trước đây.
Ngoài ra, thời gian gần đây, “thị trường đặc biệt” là công cụ được nhiều nước sử dụng khi điều tra PVTM với các nước, đặc biệt là ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Đây được coi là một biến thể của cách áp dụng “nền kinh tế phi thị trường”, thông qua “cáo buộc” Chính phủ nước xuất khẩu tác động đến thị trường nguyên vật liệu dẫn đến việc không sử dụng số liệu do doanh nghiệp kê khai trong tính toán biên độ bán phá giá, làm biên độ phá giá bị đẩy lên cao hơn so với thực tế. Mặt khác, các nước đang có xu hướng thắt chặt, đòi hỏi khắt khe hơn trong quá trình điều tra, áp dụng các biện pháp PVTM. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn hơn trong việc hợp tác với các cơ quan điều tra để cung cấp thông tin và trả lời bản câu hỏi.
Gần đây, một loạt vụ việc liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada, liên minh châu Âu cho thấy, một số quốc gia đang mở rộng phạm vi phòng vệ thương mại đến nhiều hoạt động vốn chưa từng bị xem là thiếu công bằng, không lành mạnh theo quy định của WTO với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Ví dụ như các mặt hàng đang bị điều tra: gỗ dán cứng, đệm mút, lốp xe ô tô, ống đồng, mật ong, thép chống ăn mòn, ghế bọc đệm, gạch men, tủ gỗ… Hay các mặt hàng thuộc diện có nguy cơ cao bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại như thép ống, gạch men, đá nhân tạo, pin năng lượng mặt trời, xe đạp điện…
Theo quan điểm của người viết, có vẻ như phòng vệ thương mại từ một công cụ để chống bảo hộ đang dần trở thành phương tiện để bảo hộ, thay vì đem lại lợi ích cho số đông người tiêu dùng. Tại một số thị trường, cơ quan chức năng đang bảo hộ cho một nhóm lợi ích thân hữu và bảo vệ một số nhà sản xuất bản địa trước nguy cơ bị hàng hóa Việt Nam cạnh tranh quyết liệt.
Và trên thực tế, không phải vụ kiện lịch sử của Việt Nam trước việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá tôm đông lạnh, cá basa nhập khẩu của Mỹ cách đây 10 năm sẽ tiếp tục được ghi nhận.
Những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ buộc phải chấp nhận yếu thế hơn trong giải trình, điều tra và gặp khó khăn trong tiếp cận thị trường. Thậm chí, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đối mặt với cách tính giá quá phi lý của nước nhập khẩu khi áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế. Nhất là khi các cam kết của Việt Nam trong thực hiện các Hiệp định thương mại tự do quan trọng như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP… có hiệu lực.
Trong tương lai, có thể các sản phẩm bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng Việt Nam sẽ thường xuyên hơn, đa dạng hơn, không chỉ giới hạn ở các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, mà mở rộng với những sản phẩm có giá trị và lượng xuất khẩu trung bình, nhỏ. Thị trường điều tra cũng mở hơn, ngoài các thị trường truyền thống, thường xuyên sử dụng công cụ phòng vệ thương mại như Mỹ, Canada… sẽ có thị trường chưa sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam như Đài Loan, Hàn Quốc có thể cũng áp dụng phòng vệ thương mại.
Rồi việc là hàng xóm của một số nền kinh tế đang bị điều tra, khởi kiện phòng vệ thương mại nhiều như Trung Quốc và một số nước trong ASEAN, sẽ có thể dẫn đến nguy cơ Việt Nam bị cáo buộc là nơi tiếp nhận các nguyên liệu, mặt hàng lẩn tránh thuế để phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngày 01 tháng 8 năm 2022, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 1514/QĐ-BCT áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Vương quốc Cam-pu-chia, Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Ma-lai-xi-a và Cộng hòa liên bang Mi-an-ma.
Quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại được ban hành trên cơ sở quá trình điều tra được thực hiện một cách khách quan, minh bạch theo đúng các quy định pháp luật trong nước và phù hợp với các cam kết quốc tế. Các nội dung chính của kết luận điều tra đã được gửi trước đến các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cũng như các doanh nghiệp để tham gia ý kiến.
Trên cơ sở thu thập, tổng hợp thông tin và ý kiến do các bên liên quan cung cấp, bao gồm thông tin từ ngành sản xuất trong nước, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp nhập khẩu và từ các cơ quan chức năng, kết luận điều tra xác định việc sử dụng nguyên liệu đường có xuất xứ từ Thái Lan để sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm đường mía sang Việt Nam của các doanh nghiệp từ Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Lào, Ma-lai-xi-a và Mi-an-ma là hành vi lẩn tránh biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp đang áp dụng với sản phẩm đường của Thái Lan. Đồng thời, các chỉ số kinh tế cho thấy hiệu quả của biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với sản phẩm đường mía có xuất xứ từ Thái Lan hiện đang bị suy giảm do tác động của đường nhập khẩu từ 5 quốc gia nói trên.
Nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh công bằng giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa nhập khẩu, bảo vệ lợi ích chính đáng của ngành sản xuất trong nước và người nông dân trồng mía, đường nhập khẩu từ Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a, Lào, Ma-lai-xi-a và Mi-an-ma có sử dụng nguyên liệu đường của Thái Lan sẽ bị áp dụng cùng mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đang áp dụng với đường Thái Lan với tổng mức thuế là 47,64%, trong đó thuế chống bán phá giá là 42,99% và thuế chống trợ cấp là 4,65%. Đường nhập khẩu từ 5 quốc gia nếu chứng minh được sản xuất từ mía thu hoạch tại các quốc gia này sẽ không bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh.
Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại sẽ có hiệu lực sau 7 ngày kể từ ngày Quyết định được ban hành cho đến ngày 15 tháng 6 năm 2026, trừ trường hợp được thay đổi, gia hạn theo các quyết định khác của Bộ Công Thương. Các bên liên quan có thể nộp hồ sơ yêu cầu Bộ Công Thương tiến hành rà soát việc áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM trên cơ sở quy định tại Điều 82 và Điều 90 Luật Quản lý ngoại thương và Chương IV Nghị định số 10/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại.
Trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Hải quan và các cơ quan liên quan theo dõi tác động của các biện pháp phòng vệ thương mại, tình hình sản xuất, cung-cầu, giá cả, v.v để triển khai các công cụ quản lý phù hợp theo quy định nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng và hài hòa lợi ích giữa người nông dân trồng mía, các doanh nghiệp sản xuất đường, các doanh nghiệp tiêu thụ đường và người tiêu dùng.
Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại
- Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và các thông tin, tài liệu có liên quan (căn cứ khoản 1 Điều 79 Nghị định 10/2018/NĐ-CP).
- Trong đó đơn yêu cầu áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại được hướng dẫn chi tiết tại Điều 28 Nghị định 10/2018/NĐ-CP) gồm các nội dung sau đây:
+ Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết khác của Bên yêu cầu;
+ Mô tả hàng hóa nhập khẩu là đối tượng bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm:
Tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn của quốc tế và Việt Nam; mã số hàng hóa theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam và mức thuế nhập khẩu có hiệu lực áp dụng theo biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại từng thời kỳ...
+ Mô tả khối lượng, số lượng của hàng hóa nhập khẩu quy định;
+ Mô tả khối lượng, số lượng của hàng hóa tương tự được sản xuất trong nước;
+ Thông tin về giá xuất khẩu của hàng hóa được mô tả theo quy định tại điểm b khoản này tại thời điểm nhập khẩu vào Việt Nam trong thời hạn tối thiểu 12 tháng trước khi Bên yêu cầu nộp Hồ sơ hoặc trước khi Cơ quan điều tra lập hồ sơ theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương;
+ Thông tin, số liệu, chứng cứ về các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại mà Bên yêu cầu cáo buộc;
+ Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết khác của tất cả Bên bị yêu cầu;
+ Yêu cầu cụ thể về việc áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, thời hạn áp dụng và mức độ áp dụng.
Trình tự, thủ tục, nội dung điều tra và áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại
- Căn cứ Điều 81 Nghị định 10/2018/NĐ-CP quy định trình tự, thủ tục, nội dung điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại như sau:
+ Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Hồ sơ yêu cầu, Cơ quan điều tra có trách nhiệm xem xét tính đầy đủ và hợp lệ của Hồ sơ yêu cầu.
+ Trong trường hợp Hồ sơ yêu cầu chưa đầy đủ và hợp lệ, Cơ quan điều tra thông báo cho tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ và tổ chức, cá nhân đó có ít nhất 30 ngày để bổ sung các nội dung còn thiếu theo yêu cầu của Cơ quan điều tra.
+ Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được Hồ sơ yêu cầu đầy đủ, hợp lệ, Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét quyết định điều tra căn cứ kết quả thẩm định Hồ sơ yêu cầu của Cơ quan điều tra.
+ Việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm các nội dung sau đây:
++ Xác định hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại;
++ Sự thay đổi dòng chảy thương mại từ các nước xuất xứ hoặc nước xuất khẩu hàng hóa sau khi quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có hiệu lực và sự thay đổi này là nguyên nhân của việc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đang có hiệu lực;
++ Thiệt hại của ngành sản xuất trong nước hoặc sự giảm hiệu quả của biện pháp phòng vệ thương mại đang có hiệu lực.
- Sau khi có kết luận điều tra, căn cứ Điều 83 Nghị định 10/2018/NĐ-CP quy định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại được thực hiện như sau:
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra gửi kết luận cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.
- Trong trường hợp quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, biện pháp phòng vệ thương mại đang có hiệu lực sẽ được mở rộng áp dụng đối với từng nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa được mô tả và xác định có hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.
- Thời hạn áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại chấm dứt khi thời hạn áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại ban đầu hết hiệu lực.
