Tình hình xuất khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện xuất khẩu của Việt Nam
a. Tình hình sản xuất máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam
Ngành sản xuất linh kiện điện tử đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử (EI) tại Việt Nam thông qua việc cung cấp các bộ phận và linh kiện. Đến cuối năm 2020, số lao động làm việc trong lĩnh vực này của Việt Nam khoảng 250.869 người với tổng số 858 doanh nghiệp.
Ngành công nghiệp này bao gồm các hoạt động sau: sản xuất máy tính, linh kiện máy tính, thiết bị truyền thông và các sản phẩm điện tử tương tự cũng như sản xuất linh kiện cho các sản phẩm này. Quy trình sản xuất của ngành này được đặc trưng bởi việc thiết kế và sử dụng các bo mạch và ứng dụng kỹ thuật với mức độ chuyên môn hóa cao.
Việt Nam hiện đã xuất khẩu linh kiện điện tử sang 38 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 2020, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện lớn nhất. Trị giá của thị trường này đạt 11,1 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2019, chiếm tỷ trọng 24,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này năm 2020.
Hiện các doanh nghiệp xuất khẩu linh kiện điện tử ra nước ngoài của Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp FDI. Họ đầu tư mạnh vào cơ sở sản xuất cũng như áp dụng các phương pháp quản lý hiệu quả nên sản phẩm đáp ứng được hầu hết các yêu cầu từ hầu hết các thị trường, đặc biệt là Mỹ hay Châu Âu.
Chỉ số sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học của Việt Nam năm 2021 tăng 15% so với năm 2020. Trong đó, chỉ số sản xuất linh kiện điện tử tăng 12,4 %; sản xuất thiết bị thông tin liên lạc tăng 10,8%; sản xuất sản phẩm điện tử tiêu dùng giảm 14,9%. Sản lượng điện thoại di động năm 2021 đạt 233,7 triệu chiếc, tăng 7,6%; Sản lượng TV đạt 11,17 triệu chiếc, giảm 38,6%; sản lượng linh kiện điện thoại ước đạt 480,8 nghìn tỷ đồng, tăng 29,5% so với năm 2020.
Về sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, có một số sản phẩm có sản lượng tăng so với năm 2020. Cụ thể, loa, đã hoặc chưa lắp vào thùng loa, tăng 17,17%; dây dẫn điện khác dùng cho hiệu điện thế ≤ 1000V tăng 11,39%; linh kiện máy vi tính, máy tính tiền, máy dập bưu điện, máy bán vé và các loại tương tự có gắn đơn vị tính tăng 5,89%; bộ phận của các linh kiện điện tử khác chưa được phân vào đâu tăng 5,7%; cuộn dây đơn cách điện bằng đồng tăng 3,3%.
Trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành điện tử nhìn chung duy trì tốc độ ổn định và tăng trưởng khá trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, mặc dù Việt Nam nằm trong số 12 nước xuất khẩu hàng điện tử lớn nhất thế giới và thứ 3 trong ASEAN, nhưng khoảng 95% giá trị thuộc về các doanh nghiệp FDI. Các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò chủ đạo, đặc biệt là các tập đoàn đến từ Hàn Quốc và Nhật Bản trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm cuối cùng và sản xuất linh kiện điện tử.
b. Tình hình xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam
Công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế Việt Nam, được đánh giá là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, có tác động lan toả mạnh mẽ tới các ngành công nghiệp khác. Trong những năm qua, ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam tăng trưởng mạnh đã thu hút lớn lượng đầu tư từ trong và ngoài nước, cụ thể nhiều hãng điện tử lớn trên thế giới đã đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ cao ở Việt Nam như Samsung, LG, Foxconn, Fukang Technology, LG Display Hải Phòng. Các sản phẩm máy vi tính và linh kiện điện tử ngày càng đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng máy vi tính và linh kiện điện tử đã vượt qua dệt may trở thành nhóm hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ 2 của Việt Nam kể từ năm 2019 đến nay.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nếu như năm 2011, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện mới chỉ chiếm 4,8% tổng kim ngạch xuất khẩu thì đến năm 2015 tỉ trọng đã tăng gấp 2 lần, chiếm 9,6% và luôn duy trì mức trên 10% từ đó đến nay. Năm 2021, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện đứng thứ 2 trong 8 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 10 tỉ USD của Việt Nam. Bình quân cả giai đoạn 2011-2021, giá trị kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này tăng 27,3%.
Đặc điểm thị trường máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Hàn Quốc
a. Ngành điện tử của Hàn Quốc
Ngành công nghiệp điện tử Hàn Quốc đóng góp tới 33% vào tổng lượng xuất khẩu của nền kinh tế lớn thứ tư châu Á này. Các thương hiệu điện tử của Hàn Quốc như Samsung và LG đang khẳng định vị thế của mình trên thị trường quốc tế về chất lượng cũng như công nghệ tân tiến. Điều này có nghĩa là họ có khả năng tạo ra những sản phẩm chất lượng cao với mức giá bán hợp lý so với các khoản đầu tư của mình.
Theo Báo cáo của Hiệp hội Điện tử Hàn Quốc, ngành công nghiệp điện tử của nước này đạt giá trị 121,7 tỷ USD trong năm 2017, tăng 10,3% so với năm trước, đưa nước này lên vị trí nhà sản xuất thiết bị điện tử lớn thứ ba trên thế giới, sau Trung Quốc và Mỹ, chiếm 6,8% sản lượng toàn cầu.
b. Xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Hàn Quốc
Những năm qua, các hãng sản xuất máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cũng như điện thoại của Hàn Quốc đầu tư mạnh sang Việt Nam nhằm tận dụng chi phí sản xuất thấp và những ưu đãi thuế quan của Việt Nam khi theo các cam kết FTA. Điều này dẫn tới XK các sản phẩm điện tử của Việt Nam ra thế giới cũng như sang Hàn Quốc tăng rất mạnh.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Hàn Quốc chỉ đạt 325 triệu USD thì đến năm 2016, con số này đã tăng lên gấp 4 lần. Tỷ trọng kim ngạch XK sang Hàn Quốc tăng mạnh từ mức 1,53% trong năm 2013 lên 9,27% trong 8 tháng đầu năm 2018.
Với mặt hàng điện thoại và linh kiện, kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 2013 chỉ đạt 218 triệu USD, đến năm 2017 tăng lên 3,97 tỷ USD (gấp gần 12 lần). Kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc 8 tháng đầu năm 2018 đạt 2,99 tỷ USD, tăng 23,03% so với cùng kỳ năm 2016 và chiếm 9,46% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sang Hàn Quốc chỉ chiếm tỷ trọng 1,03%.
Tình hình xuất khẩu quý I năm 2022 và thông tin cảnh báo mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc
a. Tình hình xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam quý I năm 2022
Theo Tổng cục Thống kê, là mặt hàng chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng của mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện có ảnh hưởng khá lớn đến tăng trưởng chung của xuất khẩu cả nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải Quan, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện trong tháng 3 năm 2022 đạt 5,31 tỷ USD, tăng 38,42% so với tháng trước và tăng 13,47% so tháng 3 năm 2021. Tính chung quý I năm 2022, kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 13,24 tỷ USD, tăng 10,77% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm trên 14,86% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của nước ta.
Biểu đồ 1: Trị giá kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam sang Hàn Quốc quý I năm 2022
ĐVT: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Trong tháng 3 năm 2022, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của các doanh nghiệp FDI đạt gần 5,23 tỷ USD, tăng 38,76% so với tháng trước và tăng 13,65% so với tháng 3 năm 2021; chiếm trên 98,43% tổng kim ngạch xuất khẩu máy tính và linh kiện điện tử của nước ta. Tính chung quý I năm 2022, tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng này của các doanh nghiệp FDI đạt gần 13 tỷ USD, tăng 10,79% so với cùng kỳ năm 2021 và chiếm 98,16% tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.
Biểu đồ 2: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam
ĐVT: Triệu USD
Nguồn: Tổng cục Hải Quan
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện qua các năm
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong quý I năm 2022, các thị trường chính xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện gồm: Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Hồng Kông, Hàn Quốc, Asean. Xuất khẩu sang 6 thị trường đứng đầu đã chiếm trên 83,42% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện quý I năm 2022 sang Hoa Kỳ đạt 3,2 tỷ USD, chiếm 24% thị phần. Xếp thứ hai là Trung Quốc, với kim ngạch đạt 2,9 tỷ USD, chiếm 22% thị phần; đứng sau Trung Quốc là EU với tổng kim ngạch đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 13%. Kim ngạch xuất khẩu máy vi tính và sản phẩm điện tử sang Hồng Kông đạt 1,5 tỷ USD, chiếm 11%. Hàn ghi nhận tổng kim ngạch xuất khẩu máy vi tính và sản phẩm điện tử quý I năm 2022 đạt 259 triệu USD, chiếm 8% tổng thị phần (Biểu đồ 3).
Biểu đồ 3: Cơ cấu thị trường mặt hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện xuất khẩu quý I năm 2022 của Việt Nam (% tính theo kim ngạch)
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Bảng 2: Một số thị trường xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chủ lực Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Hải quan
b. Một số thông tin cảnh báo
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán nền kinh tế Hàn Quốc sẽ tăng trưởng 4,3% trong năm 2021 và 3,3% năm 2022. Cụ thể, GDP danh nghĩa của Hàn Quốc ước tính đạt 1.820 tỷ USD trong năm 2021 và 1.910 tỷ USD trong năm 2022. Nếu những dự báo này thành hiện thực, Hàn Quốc sẽ tiếp tục là nền kinh tế lớn thứ 10 kể từ năm 2020. Hàn Quốc là nền kinh tế lớn thứ tư tại châu Á có dấu hiện phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch.
Việt Nam đã ký kết với Hàn Quốc Hiệp định khung về Hợp tác Kinh tế Toàn diện ASEAN - Hàn Quốc (viết tắt là AKFTA), đây là hiệp định mậu dịch tự do được ký kết giữa các quốc gia ASEAN trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc vào năm 2005. Năm 2015, Hàn Quốc và Việt Nam tiếp tục ký kết Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA), sau 7 năm thực thi hai nước đã và đang tận dụng tốt các điều khoản từ VKFTA, qua đó đóng góp tích cực vào mối quan hệ song phương giữa hai nước về thương mại và đầu tư. Chính thức được ký ngày 5/5/2015 và có hiệu lực từ ngày 20/12/2015, VKFTA là Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đầu tiên trong số các FTA song phương giữa Việt Nam với các đối tác kinh tế. VKFTA một hiệp định mang tính toàn diện, có mức độ cam kết cao và đảm bảo cân bằng lợi ích cho cả đôi bên.
Nhờ mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã khiến cho tiềm năng phát triển thương mại giữa hai quốc gia rất khả quan. Hiệp định thương mại tự do song phương đã phần nào thúc đẩy hơn nữa quan hệ chính trị, kinh tế… giữa hai nước. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong giai đoạn 2016-2018 đạt mức tăng trưởng trung bình 26,9%/năm so với mức 24,3%/năm của giai đoạn (2010-2015). Đặc biệt, rất nhiều mặt hàng đã hưởng lợi nhờ hiệp định VKFTA, trong đó không thể không kể đến mặt hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Thực tế từ năm 2015 đến nay, xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện từ Việt Nam sang Hàn Quốc rất cải thiện từ tận dụng được những ưu đãi thuế quan từ hiệp định này.
Bên cạnh đó, các mặt hàng có tăng trưởng xuất khẩu nhanh, dù kim ngạch lớn hay nhỏ có thể trở thành mục tiêu bị điều tra PVTM nếu ngành sản xuất nội địa của Hàn Quốc cho rằng hàng nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất nội địa. Ngoài ra, các doanh nghiệp dù đã hết bị áp thuế PVTM cũng có thể trở thành mục tiêu của một cuộc điều tra mới nhằm bảo đảm hiệu quả của các biện pháp trước đây. Vì vậy, các sản phẩm đã bị điều tra, áp dụng một trong các biện pháp PVTM vẫn có thể tiếp tục bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM khác.
Với lợi thế nguồn nhân công rẻ, thị trường sản xuất máy vi tinh, sản phẩm điện tử và linh kiện đang ngày càng phát triển, cùng với hoạt động nhập khẩu các sản phẩm điện tử nói trên từ Trung Quốc của Việt Nam lại càng gia tăng nhanh chóng. Do vậy, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam trong tương lai sẽ có nguy cơ bị kiện phòng vệ thương mại là điều có thể lường trước.
Tính đến hết tháng 02 năm 2022, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã là đối tượng của 210 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài. Hoa Kỳ là quốc gia điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, với tổng số 41 vụ việc bao gồm: 21 vụ điều tra chống bán phá giá, 8 vụ điều tra chống trợ cấp, 10 vụ điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại và 2 vụ điều tra tự vệ. Hàng hóa trong các vụ kiện này rất đa dạng, từ nông sản (tôm, cá, mật ong, gỗ) cho đến hóa chất (túi nhựa), kim loại (nhôm, thép các loại) và các sản phẩm công nghiệp (pin mặt trời, máy giặt, máy cắt cỏ...). . Những vụ kiện này không chỉ gây tác động đến doanh nghiệp chế biến xuất khẩu mà kéo theo đó là đời sống của hàng vạn lao động trong các hộ nông dân cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy.
Trong khi đó, tính đến hết năm 2021, Hàn Quốc đã tiến hành khởi xướng điều tra 171 vụ việc phòng vệ thương mại, trong đó có 167 vụ việc chống bán phá giá, 04 vụ việc tự vệ. Cụ thể, các mặt hàng nhập khẩu vào Hàn Quốc như hóa chất, giấy, kim loại và sản phẩm điện tử thường xuyên bị khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại. Biện pháp chống bán phá giá cũng là công cụ được sử dụng nhiều nhất trong số các biện pháp phòng vệ thương mại mà Hàn Quốc sử dụng điều tra hàng hóa nhập khẩu vào nước này. Trong đó, sản phẩm hóa chất với 43 vụ việc, chiếm 25,75% tổng số vụ việc khởi xướng điều tra chống bán phá giá; sản phẩm giấy với 22 vụ việc, chiếm 13,17%; kim loại có 24 vụ việc, chiếm 14%; sản phẩm điện tử có 22 vụ, chiếm 13% (Biểu đồ 4).
Biểu đồ 4: Số lượng vụ việc Hàn Quốc khởi xướng điều tra chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu theo ngành hàng giai đoạn 1995-2001
Nguồn: WTO
Trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2021, Hàn Quốc khởi xướng điều tra 04 vụ việc chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, có 03 vụ việc đã tiến hành áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam.
Tuy hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện chưa phải là đối tượng mà phía Hàn Quốc khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại thường xuyên, nhưng có thể thấy trong bối cảnh các tác động tích cực của các hiệp định thương mại tự do tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong thời gian qua. Cộng thêm với yếu tố sản phẩm điện tử nhập khẩu vào Hàn Quốc là một trong những đối tượng bị khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất tại quốc gia này. Do vậy, chúng ta phải thường xuyên cập nhật, phân tích tình hình hoạt động xuất nhập khẩu của mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam trong thời gian tới.
