Tin tức

Phân tích cảnh báo nguy cơ bị áp dụng biện pháp PVTM đối với mặt hàng thép của Việt Nam sang EU (quý 2/2022)

Thứ Sáu, 27/10/2023


 

 

1. Tình hình xuất khẩu thép và sản phẩm từ sắt thép của Việt Nam sang EU quý 2/2022 và 6 tháng đầu năm 2022

Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong quý 2/2022 xuất khẩu sắt thép các loại của Việt nam sang EU đạt 465,5 nghìn tấn, trị giá 583,9 triệu USD, đơn giá xuất khẩu trung bình là 1254,34 USD/tấn.

 Tính chung quý 6 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu sắt thép các loại sang EU 27 đạt 898,5 triệu tấn, trị giá 1,085 tỷ USD, tăng 40,59% về lượng và 83,09% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2021. 

Biểu đồ: Lượng xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang EU-27

 từ tháng 01/2021-6/2022

(đvt: tấn)

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan 

Bảng: Lượng, giá và trị giá xuất khẩu sắt thép các loại sang EU trong 6 tháng đầu năm 2022

6 tháng đầu năm 2022

6 tháng năm 2022 so 6 tháng năm 2021 (%)

Lượng (tấn)

Giá trung bình (USD/tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Giá trung bình

Trị giá

898.579

1.207,89

1.085.384.319

40,59

30,23

83,09

 

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan 

    

Giá xuất khẩu sắt thép trung bình sang EU 6 tháng đầu năm 2022 đã tăng 30,23% so với 6 tháng đầu năm 2021, đạt khoảng 1207,89USD/tấn mặc dù đã giảm so với những tháng cuối năm 2021. 

 

Biểu đồ: Giá xuất khẩu sắt thép trung bình theo tháng của Việt Nam sang EU, giai đoạn từ tháng 1/2021-6/2022

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan 

2. Cập nhật tình hình thị trường thép EU trong quý 2/2022

Về sản xuất

Sau khi tăng mạnh trong quý 4 năm 2021, sản xuất thép của EU chững lại từ tháng 12/2021 đến tháng 2/2022, tăng trong tháng 3/2022 sau đó liên tiếp giảm trong 3 tháng gần đây. Sản lượng thép ở EU giảm xuống 11,8 triệu tấn vào tháng 6/2022 từ mức 12,9 triệu tấn vào tháng 5 năm 2022. 

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, sản xuất thép của EU đạt 72 triệu tấn (trước đó 6 tháng cuối năm 2021, EU đã sản xuất được 74,7 triệu tấn thép). 

Biểu đồ: Sản xuất thép của EU, hàng tháng năm 2021-2022

Đvt: triệu tấn

Nguồn: Hiệp hội Thép thế giới

Theo thống kê từ Liên đoàn Thép Đức (WV Stahl), sản lượng thép thô của Đức đạt khoảng 3,2 triệu tấn trong tháng 6/2022, giảm 7% so với cùng tháng một năm trước và chiếm khoảng 27% tổng sản lượng thép của EU trong tháng. 

Cũng trong tháng 6/2022, sản lượng thép cán nóng của Đức đã giảm 8% so với cùng kỳ năm 2021 xuống còn khoảng 2,8 triệu tấn.

Tính nửa đầu năm nay, tổng sản lượng thép thô của Đức đạt khoảng 19,6 triệu tấn, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái; sản lượng thép cán nóng khoảng 17,3 triệu tấn, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm 2021. 

Nguồn cung thép ống tại EU có thể sẽ sụt giảm. Các nhà sản xuất tin rằng không thể giảm giá thép ống thêm nữa do chi phí sản xuất cao, giá khí đốt dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng, đặc biệt là ở Ý và Đức, và chi phí vận tải đắt đỏ. Tất cả các nhà sản xuất ống trên khắp châu Âu đang giảm sản lượng. Các nhà sản xuất Ý và Tây Ban Nha có kế hoạch ngừng sản xuất dài hơn vào tháng 8/2022. Nguồn cung chỉ có thể tăng vào tháng 9/2022 nếu điều kiện thị trường thuận lợi hơn. 

Về cầu và nhập khẩu

EU tiêu thụ 150 triệu tấn thép trong năm 2021. Theo dự báo cập nhật đến cuối quý 2/2022, tiêu thụ thép ở châu Âu dự kiến giảm 1,9% trong năm nay so với năm 2021, sau đó tăng 5% vào năm 2023. Tiêu thụ thép đã phục hồi mạnh mẽ vào năm 2021 (tăng 15%), sau khi sụt giảm 10,7% vào năm 2020. Năm 2021 đánh dấu sự phục hồi sau đại dịch COVID-19 trong các lĩnh vực sử dụng thép mặc dù có nhiều yếu tốt bất lợi như giá năng lượng trong nửa cuối năm, ngành ô tô- ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều thép nhất chững lại trong sản xuất vì thiếu linh kiện và tỷ lệ chạy xe trên đường giảm.

Tăng trưởng trong sản lượng thép của các ngành tiêu dùng cuối cùng của EU trong năm 2022 hiện dự kiến đạt còn 2%, giảm so với mức 4% được dự báo vào đầu tháng 2/2022. Theo Eurofer, vào năm 2023,  tiêu thụ có thể tăng 2,3%.

Vào tháng 6/2022, nhu cầu đối với các ngành công nghiệp hạ nguồn thép và thép ô tô được cải thiện, và việc xây dựng cơ sở hạ tầng được mở rộng, nhưng máy móc xây dựng trong lĩnh vực bất động sản và các ngành công nghiệp thiết bị gia dụng tiếp tục sụt giảm.

Tuy nhiên, các nhà sản xuất dự báo nhu cầu rõ ràng được cải thiện sau khi nhận thấy một số nhà phân phối mua tăng lên trong cuối quý 2/2022 để bổ sung hàng dự trữ. Mặc dù thị trường chung vẫn trầm lắng trong bối cảnh lo ngại về suy thoái kinh tế, nhưng nhu cầu đối với một số chủng loại vẫn được cải thiện.  Ví dụ, theo dự báo của các chuyên gia ngành thép, thị trường thép không gỉ châu Âu có thể đạt gần mức trước khi xảy ra dịch bệnh COVID-19 với khoảng 1,2 triệu tấn thép dài thành phẩm trong năm nay, tăng từ 1,05 triệu tấn vào năm 2021.

Về nhập khẩu

Theo tính toán của Liên đoàn thép châu Âu (Eurofer): nếu nhập khẩu thép thành phẩm của châu Âu tiếp tục với tốc độ trong 5 tháng đầu năm 2022 thì tổng lượng nhập có thể đạt mức kỷ lục mới là 34,5 triệu tấn trong cả năm 2022. Năm 2021, nhập khẩu tất cả thép thành phẩm đã vượt 30 triệu tấn, vượt cả kỷ lục trước đó đạt được vào năm 2018.

Về cạnh tranh

Nhà cung cấp tại EU: CAS có trụ sở tại Bắc Ý, có công suất hơn 200.000 tấn thép không gỉ / năm, là một trong những nhà sản xuất chính của châu Âu về các sản phẩm thép không gỉ và hợp kim niken dài, cung cấp các dịch vụ nấu chảy, đúc, cán, rèn và gia công. Công ty đã bán được 180.000 tấn sản phẩm thép dài không gỉ vào năm 2021.

Nguồn nhập khẩu từ Trung Quốc: Theo thống kê của Cơ quan thống kê quốc gia Trung Quốc, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 6 giảm 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái và sản lượng thép giảm 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nguồn nhập từ Ukraine: Vào ngày 24 tháng 5 năm 2022, EU đã thông qua một quy định, theo đó phê duyệt tự do hóa thương mại tạm thời và các nhượng bộ thương mại khác đối với một số sản phẩm của Ukraine, đã tạm thời đình chỉ việc áp dụng biện pháp tự vệ thép đối với Ukraine.

 

3.  Cảnh báo và khuyến nghị

3.1. Điều chỉnh chung về chính sách phòng vệ với sản phẩm thép: 

Hạn ngạch thuế quan (TRQ) đối với sản phẩm thép nhập khẩu vào EU đã được áp dụng vào giữa năm 2018 để hạn chế chênh lệch thương mại sau khi Tổng thống Mỹ vào thời điểm đó đưa ra mức thuế 25% đối với sản phẩm thép nhập khẩu từ nhiều quốc gia theo luật Mục 232 vào tháng 3 năm đó. Các khoản thuế theo Mục 232 đối với thép của EU đã được thay thế bằng một hiệp định hạn ngạch thuế quan đối với thương mại giữa các bên liên quan. 

Trong thực tế từ khi được áp dụng vào năm 2018, các hiệp hội đại diện cho các bên tiêu dùng (sử dụng) thép của EU đã vận động hành lang trong quá trình xem xét để bãi bỏ hoặc đình chỉ các biện pháp tự vệ hoặc để tăng hạn ngạch thuế quan. Họ cho rằng các biện pháp phòng vệ, tự vệ thương mại đã góp phần làm tăng giá và gây ra tình trạng khan hiếm sản phẩm trên thị trường EU. Vào tháng 9 năm 2021, Hiệp hội các nhà nhập khẩu và phân phối kim loại không tích hợp châu Âu (Euranimi) -đại diện cho phía các bên sử dụng thép có trụ sở tại Brussels, đã khởi kiện lên Tòa án chung của Liên minh châu Âu ở Luxembourg, yêu cầu hủy bỏ gia hạn 3 năm kể từ tháng 6 năm 2021 đối với biện pháp tự vệ, dựa trên cáo buộc "một lỗi rõ ràng " của EC trong việc đánh giá tổn thất nghiêm trọng do nhập khẩu thép.

Về phía mình, Liên đoàn thép châu Âu (Eurofer)- đại diện cho các nhà sản xuất thép của EU lại cho rằng các biện pháp tự vệ nhập khẩu thép cần tiếp tục được thực hiện "để tránh gián đoạn nghiêm trọng do nhập khẩu đột ngột tăng vọt mà không có sự quản lý vi mô về nguồn cung hoặc giá cả ... Giá thép châu Âu sau khi lên tới mức cao nhất vào tháng 3/2022 đã giảm nhanh và đáng kể trong quý 2/2022 (thấp hơn giá của Mỹ do những người sử dụng thép đang hạn chế các đơn đặt hàng đầu cơ giá giảm). Theo đánh giá của S&P Global Commodity Insights, giá thép cuộn cán nóng tại Bắc Âu đã giảm 17,2% kể từ đầu quý 2/2022 xuống 1.150 Eur / tấn vào ngày 11 tháng 5 năm 2022. 

Việc xem xét lại hệ thống tự vệ thương mại của EU đối với sản phẩm thép- lần xem xét thứ tư - đã được tiến hành vào tháng 12 năm 2021, với sự đóng góp của các bên quan tâm theo yêu cầu của EC của ngày 10 tháng 1 năm 2022. Sau sự kiện Nga phát động chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, EC đã phân bổ lại hạn ngạch nhập khẩu từ Nga và từ Belarus cho các nước xuất khẩu khác. Theo Hiệp hội thép châu Âu, nhập khẩu thép thành phẩm từ Nga và Ukraine đạt tổng cộng khoảng 6 triệu tấn vào năm 2021, chiếm khoảng 20% ​​tổng lượng nhập khẩu của EU và 4% tiêu thụ thép của EU. 

Trên cơ sở phân tích các dữ liệu thực tiễn, Ủy ban Châu Âu đã đệ trình lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thông báo gia hạn thời gian áp dụng biện pháp tự vệ theo hình thức hạn ngạch thuế quan (TRQ) đối với một số sản phẩm thép nhập khẩu thêm 3 năm (có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2021 đến ngày 30/6/2024), bao gồm 26 chủng loại sản phẩm thép. (EC có đánh giá cụ thể 26 danh mục sản phẩm, bao gồm tấm và dải cán nóng, tấm cán nguội, tấm tráng kim loại, sản phẩm thiếc, tấm và dải cán nóng và nguội không gỉ, thép thanh, thép rỗng và nhẹ, thanh cốt thép, thanh dây, vật liệu đường ray, ống hàn và ống liền mạch)

Theo đó EC tiếp tục duy trì cách thức phân bổ hạn ngạch kết hợp giữa phân bổ hạn ngạch riêng theo từng nước và hạn ngạch chung cho các nước còn lại. Thuế trong hạn ngạch là 0%, trong khi thuế ngoài hạn ngạch là 25%.

Tháng 6/2022, Liên đoàn thép châu Âu (Eurofer) tuyên bố hoan nghênh việc các nước thành viên EU thông qua đề xuất tiếp tục các biện pháp tự vệ thép của Ủy ban châu Âu, đồng thời cho rằng điều này hỗ trợ sự ổn định của thị trường thép EU và đảm bảo tính công bằng trong khi nguồn cung thép vẫn thông suốt. 

Trong một tuyên bố ngày 8 tháng 6 năm 2022, Tổng giám đốc Eurofer, ông Axel Eggert cho biết “sự hỗ trợ lớn” của các quốc gia thành viên đối với việc tiếp tục áp dụng biện pháp tự vệ sẽ mang lại “sự ổn định cho thị trường thép EU trong khi tránh nhập khẩu thép quá mức, gây gián đoạn thị trường từ các nước thứ ba”.

Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu thép cuộn cán nóng của châu Âu trước đó cho rằng các đề xuất sửa đổi trong các biện pháp tự vệ thép của EU đối với thép thành phẩm nhập khẩu không có khả năng mang lại thay đổi tích cực cho thị trường, thậm chí có thể cản trở dòng chảy thương mại.

Giá HRC đã giảm ở châu Âu kể từ nửa cuối tháng 3/2022 do nhu cầu yếu. Đánh giá hàng ngày của Platts đối với HRC ở Bắc Âu đã giảm xuống 950 EUR/ tấn Ruhr vào ngày 8 tháng 6 năm 2022 và ở Ý xuống 890EUR / tấn xuất xưởng, lần lượt giảm 3% và 6% kể từ đầu năm 2022.

Bản đệ trình của EC lên WTO cho rằng hạn ngạch dành riêng cho từng thị trường sẽ được giữ nguyên, nhưng hạn ngạch toàn cầu sẽ được áp dụng cho một số sản phẩm khác, bao gồm thép tấm nặng, do tác động xung đột Nga-Ukraine đối với ngành sản xuất và xuất khẩu thép của Ukraine.

EC cũng đã xác nhận rằng việc Mỹ thay đổi mức thuế nhập khẩu 25% gần đây thành hạn ngạch thuế quan đối với EU có ít hoặc không ảnh hưởng đến hoạt động và tính hợp lý của biện pháp tự vệ.

Trong thời gian qua, các biện pháp phòng vệ thương mại được chú trọng hơn nhằm giải quyết các thỏa thuận trợ cấp ngày càng phức tạp giữa các nước thứ ba có thể gây nguy hại đến sự tồn tại của ngành công nghiệp thép của EU. 

Ví dụ, Indonesia, một trong những nhà sản xuất quặng nickel lớn trên thế giới, muốn tối đa hóa giá trị của nguyên liệu thô khan hiếm này bằng cách phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn trong nước thay vì chỉ xuất khẩu. Để có được quy mô đầu tư cần thiết, Indonesia đã tranh thủ nguồn tài chính ưu đãi của Trung Quốc theo sáng kiến ​​Vành đai và Con đường. Đổi lại, Indonesia đảm bảo cho Trung Quốc tiếp cận quặng nickel với giá rẻ thông qua một hệ thống chính sách phức tạp, trong đó các hạn chế xuất khẩu quặng thô. Ngành công nghiệp thép của EU bị ảnh hưởng không chỉ bởi nhập khẩu thép không gỉ được trợ cấp, mà còn bởi việc Indonesia hạn chế cung cấp quặng nickel cho sản xuất thép không gỉ. Trước tình hình đó, EU đã hành động để giải quyết vấn đề trợ cấp chéo của Trung Quốc. Các hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô của Indonesia cũng được EU giải quyết trong một vụ kiện giải quyết tranh chấp lớn hơn tại WTO. Theo lập luận của EC, trong những năm qua, và nhờ vào các hạn chế xuất khẩu do Chính phủ Indonesia áp đặt đối với xuất khẩu quặng nickel, một số nhà máy luyện quặng niken đã được xây dựng. Nhu cầu quặng nickel trong nước cũng tăng lên nhờ các hành động của Chính phủ nước này nhằm thúc đẩy hoạt động luyện kim được thiết lập trước đây ở Trung Quốc chuyển sang Indonesia. Chính phủ Indonesia kiểm soát việc sản xuất quặng niken và giữ giá trong nước thấp hơn đáng kể so với giá quốc tế để mang lại lợi ích cho các nhà máy luyện và nhà sản xuất thép không gỉ. Tuy nhiên, điều đó lại làm giảm nguồn cung nickel cho sản xuất thép của EU và làm cho hàng nhập khẩu cạnh tranh hơn về giá nhờ khoản đầu tư có “trợ cấp” của Chính phủ Trung Quốc tại Indonesia. 

 Trước đó, vào tháng 6 năm 2020, EU đã đưa ra các biện pháp để phòng chống hình thức trợ cấp sáng tạo này của Trung Quốc cho các công ty và liên doanh của Trung Quốc được thành lập tại các đặc khu kinh tế ở Ai Cập, sản xuất vải sợi thủy tinh (GFF) và các sản phẩm từ sợi thủy tinh (GFR).

Ngoài các biện pháp chống trợ cấp áp lên Ấn Độ và Indonesia hiện nay, EU hiện cũng áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với nhập khẩu các sản phẩm thép không gỉ cán nguội từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan (TQ). Mức thuế dao động từ 24,4% đến 25,3% đối với Trung Quốc và từ 0% đến 6,8% đối với Đài Loan (TQ).

3.2. Cảnh báo với sản phẩm thép từ Việt Nam: 

Ủy ban châu Âu đã thêm Việt Nam vào danh sách các nước đang phát triển, có nghĩa là Việt Nam sẽ phải chịu hạn ngạch như các nước khác. Như vậy trong hệ thống hạn ngạch thuế quan (TRQ) đối với sản phẩm nhập khẩu thép vào EU, Việt Nam được xếp vào nhóm “các nước khác” với hạn ngạch nhập khẩu dành cho nhóm này là 2,1 triệu tấn thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) từ ngày 1/7/2021 đến 30/6/2022 và tăng 4%/năm trong 2 năm tới.

Theo số liệu của Eurofer, vào đầu tháng 7/2021, khoảng 18% hạn ngạch của giai đoạn đã được các nhà nhập khẩu thép của EU sử dụng trong khi vào tháng 1 năm 2022, khoảng 33% hạn ngạch đã được sử dụng. Khảo sát các doanh nghiệp nhập khẩu thép tại EU cho thấy trong nửa đầu tháng 7/2022, dự kiến sẽ có 29% số hạn ngạch được nhập khẩu vào EU. 

Việt Nam bị áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ) chung với các nước khác theo từng quý đối với các sản phẩm thép nhóm 2 (thép tấm cán nguội); nhóm 5 (thép mạ, phủ, tráng); nhóm 9 (thép tấm không gỉ); nhóm 24 (ống thép đúc). 

Đối với các nhóm sản phẩm thép khác, Việt Nam được loại trừ theo tiêu chí nước đang phát triển có thị phần nhập khẩu không đáng kể (dưới 3%). Trường hợp thị phần nhập khẩu một nhóm sản phẩm thép khác từ Việt Nam vào EU vượt quá 3%, nhóm này sẽ bị đưa vào danh sách áp dụng TRQ trong các lần rà soát hành chính hàng năm.

Đáng chú ý, hàng nhập khẩu thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) thuộc danh mục sản phẩm 4A từ bất kỳ xuất xứ nào sẽ chịu hạn ngạch và bị áp thuế 25% đối với bất kỳ khối lượng nhập khẩu ngoài hạn ngạch được phân bổ. Động thái này được các doanh nghiệp thép EU kỳ vọng nhiều sau khi các số liệu cho thấy nhập khẩu HDG của Việt Nam tăng vọt lên gần 1 triệu tấn vào năm 2021, từ mức chỉ khoảng 70.000 tấn vào năm 2020 (theo số liệu của EU). Cũng theo số liệu của EU, trong quý 1 năm 2022, lượng nhập từ Việt Nam ở mức gần 350.000 tấn. 

Mạ kẽm nhúng nóng (Hot dip galvanized steel - HDG) là quá trình thép được nhúng trong kẽm nóng chảy để tạo ra một lớp phủ chống rỉ sét. Thép mạ kẽm nhúng nóng có cấu hình tinh thể đặc trưng trên bề mặt của thép.

Thép cuộn cán nóng (HRC) là thép tấm ở dạng cuộn, sản phẩm được sản xuất theo quy trình cán nóng. Nguyên liệu sản xuất có nhiều độ dày khác nhau và khổ rộng của nguyên liệu thường là 1500 - 2000mm…Bề mặt nguyên liệu sản xuất thép cán nóng HRC thường có màu xanh xám khi mới sản xuất, nhưng có thể chuyển sang màu vàng nhạt do tác động của nước biển khi vận chuyển bằng đường biển.

Sự khác biệt lớn nhất là hạn ngạch dành cho các quốc gia khác đối với thép cuộn cán nóng (HRC) đã giảm gần 200.000 tấn / quý. Trong quý 3/2022 (tháng 7 đến tháng 9) hạn ngạch được đặt ở mức 900.000 tấn, trong khi vào tháng 4, hạn ngạch được đặt ở mức 1,17 triệu tấn cho quý 2/2022. Tương tự như vậy, hạn ngạch cho quý 2 năm 2023 (tháng 4 đến tháng 6) - quý cuối cùng quan trọng của mỗi năm hạn ngạch, trong đó tất cả các quốc gia có lượng nhập khẩu được phân bổ của riêng họ được tiếp cận với lượng bổ sung còn lại - đã giảm xuống 890.500 tấn từ 1,15 triệu tấn trước đó. Các hạn ngạch cho thời gian từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 4 năm 2023 cũng đã giảm đi một lượng tương tự như những hạn ngạch có hiệu lực cho đến cuối tháng 6 năm 2024.

Những thay đổi khác cũng đáng lưu ý là Ai Cập không còn được miễn hạn ngạch đối với HRC và HDG 4A, và hiện đang nhập khẩu theo phân bổ của “các quốc gia và vùng lãnh thổ khác”. Tương tự, Việt Nam và Ukraine đã được thêm vào danh sách các quốc gia áp dụng hạn ngạch. Việc giảm hạn ngạch HRC kết hợp với việc Ai Cập được bổ sung vào danh sách các quốc gia không được miễn trừ có nghĩa là khối lượng dành cho các nhà nhập khẩu còn lại thậm chí còn thấp hơn. Việc giảm hạn ngạch HRC của các quốc gia khác sẽ tạo ra sự khác biệt, chủ yếu là vào quý cuối cùng của mỗi năm hạn ngạch, vì đây là thời điểm mà các quốc gia như Ấn Độ, trước đó đã hết phân bổ sớm trong các quý, sẽ không được tiếp cận khối lượng bổ sung.

Các doanh nghiệp xuất khẩu thép của  Việt Nam cần lưu ý

Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm thép nhập khẩu vào EU thời gian qua, các doanh nghiệp cần lưu ý một số chỉ tiêu mang tính chỉ báo mà Ủy ban châu Âu sẽ theo dõi chặt chẽ các xu hướng sau để điều chỉnh các biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm thép: 

Đối với thị trường thép EU: 

+ Sản lượng sản xuất trên công suất thiết kế: Tỷ lệ này sụt giảm là một chỉ báo đáng quan ngại.

+ Doanh số bán thép của liên minh giảm trong khi tổng doanh số trên thị trường không giảm; 

+Giá tiếp tục giảm đáng kể mà chi phí sản xuất không giảm tương ứng: điều này cho thấy các nhà sản xuất thép của EU có thể đang bị cạnh tranh không công bằng bởi hàng nhập khẩu giá rẻ;

+ Lợi nhuận của các nhà sản xuất trong EU được lấy mẫu để điều tra tiếp tục giảm và thậm chí bị âm, đồng thời dòng tiền, đầu tư ròng và lợi tức đầu tư giảm so với giai đoạn được xem xét;

+ Việc làm giảm; 

+Thị phần của ngành công nghiệp thép của EU và thị phần nhập khẩu từ các nước liên quan.

Đối với thép từ Việt Nam: 

+ Lượng nhập khẩu và thị phần; 

+ Giá nhập khẩu so với chi phí sản xuất phù hợp với điều kiện thực tiễn thị trường (để đánh giá cả nguy cơ phá giá và nguy cơ trợ cấp)

+ Nguy cơ trợ cấp chéo thông qua đầu tư nước ngoài vào ngành thép tại Việt Nam (cơ cấu sở hữu chéo trong các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thép); 

+ Đối tác nhập khẩu và các nhà trung gian. 

 

Bài viết liên quan