1. Tình hình xuất khẩu thép và sản phẩm từ sắt thép của Việt Nam sang EU quý 1/2022
Tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy lượng xuất khẩu sắt thép các loại của Việt Nam sang EU trong xu hướng tăng từ tháng 4-7/2021, sau đó biến động theo xu hướng giảm nhưng đã tăng mạnh trở lại vào tháng 3/2022, tăng 170,26% so với tháng 2/2022 và 50,5% so với tháng 3/2021.
EU đứng thứ 2 trong các thị trường xuất khẩu thép của Việt Nam, chiếm hơn 19% tỷ trọng trong quý I/2022.
Xét về giá, giá xuất khẩu trung bình của tháng 3/2022 giảm nhẹ 7,19% so với tháng 2/2022, tăng 19,97% so với cùng tháng năm trước. Kết quả là trị giá xuất khẩu trong tháng 3/2022 tăng 150,82% so với tháng liền trước và tăng 80,56% so với cùng tháng năm trước.
Biểu đồ 1: Lượng xuất khẩu sắt thép các loại của EU sang EU 27
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan
Tính chung quý 1/2022, xuất khẩu sắt thép các loại sang EU 27 đạt 439.461 tấn, với giá xuất khẩu trung bình là 1158,27 USD/tấn, trị giá trên 509 triệu USD, tăng 33,33% về lượng, 39,05% về giá và 85,39% về trị giá so với quý 1/2021.
Bảng: Lượng, giá và trị giá xuất khẩu sắt thép các loại và sản phẩm từ sắt thép sang EU trong quý 1/2022
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan
2. Đặc điểm ngành thép và thị trường thép nội địa, thép nhập khẩu của EU
Tầm quan trọng của ngành thép:
Ngành công nghiệp thép của EU hiện vẫn dẫn đầu thế giới về tính tiên phong trong đổi mới công nghệ và bền vững với môi trường. Ngành có doanh thu khoảng 125 tỷ euro, sản xuất trung bình 153 triệu tấn thép mỗi năm và tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 310.000 người có tay nghề cao và nhiều lao động gian tiếp khác.
Do tính chất tích hợp chặt chẽ với các ngành sản xuất và xây dựng của Châu Âu, thép là một trong những ngành “trụ cột” cho tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng và việc làm ở EU
Hàng ngàn chủng loại và chủng loại thép khác nhau được phát triển tại EU, là đầu vào quan trọng cho hầu hết các ngành công nghiệp chế biến chế tạo mà EU có lợi thế trên thế giới như sản xuất ô tô, máy móc thiết bị phụ tùng, phương tiện vận tải, đóng tàu, công nghiệp hạ tầng…Do đó bất kỳ động thái nào trong ngành thép cũng sẽ có tác động lớn đến sản xuất công nghiệp, thu ngân sách và việc làm và thu hút sự quan tâm của đông đảo doanh nghiệp, các chính trị gia và nhà nghiên cứu.
Ở khía cạnh môi trường, thép có thể tái chế 100% và do đó là một phần cơ bản của nền kinh tế tuần hoàn. Là một vật liệu kỹ thuật cơ bản, thép cũng là một yếu tố thiết yếu trong việc phát triển và triển khai các công nghệ giảm thiểu CO2, cải tiến, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và thúc đẩy phát triển bền vững ở Châu Âu.
Sản xuất:
Sản xuất thép của EU đã có sự sụt giảm trong giai đoạn 2018-2019 trước khi giảm mạnh vào năm 2020 vì tác động của dịch bệnh COVID-19.
Đến năm 2021, sản xuất phục hồi nhưng vẫn chưa về được mức trước đại dịch. Các biện pháp hạn chế đi lại, nguồn cung lao động thiếu hụt, chuỗi cung ứng hàng hóa bị gián đoạn khiến nguồn cung đầu vào cho sản xuất bị chậm trễ, chi phí vận tải tăng làm đội chi phí là những áp lực lớn đối với các nhà sản xuất thép của EU trong thời gian gần đây.
Trong bối cảnh đó, thép nhập khẩu với giá rẻ hơn vào thị trường này đe dọa tới năng lực cạnh tranh của ngành.
Biểu đồ 2: Sản xuất thép của EU trong giai đoạn 2017-2021 (đvt: nghìn tấn).
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Hiệp hội thép EU (EUROFER)
Phân bố sản xuất theo quốc gia:
Hơn 500 địa điểm sản xuất thép, phân bổ tại các quốc gia thành viên EU cung cấp việc làm trực tiếp và gián tiếp cho hàng triệu công dân châu Âu.
Trong đó, Đức hiện đang là nước sản xuất lớn nhất, chiếm tới 26,2% về sản lượng của toàn khối, tiếp theo là Italy 16%, Tây Ban Nha và Pháp luân phiên vị trí thứ 3 và thứ 4.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Hiệp hội thép EU (EUROFER)
Các kênh phân phối, bán hàng:
Các nhà máy thép của EU và các nước thứ ba cung cấp các sản phẩm thép cho thị trường thép EU theo các kênh đa dạng khác nhau, hay có thể nói là thị trường thép có nhiều cấp độ khác nhau. Các sản phẩm thép có thể được bán ‘gián tiếp’ cho các nhà khai thác trong lĩnh vực phân phối thép hoặc bán ‘trực tiếp’ cho những khách hàng trong lĩnh vực sử dụng thép. Các nhà điều hành trong lĩnh vực phân phối thép bao gồm các trung tâm dịch vụ thép, kho dự trữ và thương nhân. Họ dự trữ và bán sản phẩm. Các trung tâm dịch vụ và kho dự trữ cung cấp các dịch vụ bổ sung cho các lĩnh vực sử dụng thép như cắt, rạch, khoan, uốn... Mức tồn kho trong phân phối thép thay đổi theo thời gian, phản ánh nhu cầu theo mùa và - ở một mức độ nào đó có liên quan cả đến hoạt động đầu cơ.
Hiệp hội thép châu Âu: EUROFER AISBL đặt trụ sở tại Brussels và được thành lập vào năm 1976, đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất thép của Liên minh Châu Âu. Các thành viên của EUROFER là các công ty thép và các liên đoàn thép quốc gia trên toàn EU. Các công ty thép lớn và liên đoàn thép quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh là thành viên liên kết (Hiệp hội Thép Châu Âu được ghi trong sổ đăng ký minh bạch của EU với mã số 93038071152-83).
3. Cảnh báo và khuyến nghị
EU nhập khẩu 30,3 triệu tấn thép thành phẩm vào năm 2021, tăng tới 39,7% so với năm 2020. Đây là một trong những dấu hiệu cho thấy ngành thép của nước này sẽ quan tâm nhiều hơn đến áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu và có thể sẽ có nhiều đơn yêu cầu điều tra để áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với nhóm hàng này.
Trong cơ cấu chủng loại thì thép dẹt vẫn chiếm gần 80% lượng nhập khẩu thép vào EU, còn lại là thép dài.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Hiệp hội thép EU (EUROFER)
Đối với nhập khẩu thép từ Việt Nam hay xuất khẩu từ Việt Nam sang EU, có thể thấy lượng tăng trong khi giá xuất khẩu có xu hướng giảm trong 3 tháng đầu năm. Điều này có thể đặt các sản phẩm thép Việt Nam vào thế “bị quan tâm nhiều hơn”. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sức tiêu thụ thép trên thị trường EU để đảm bảo sự cân đối lợi ích của các bên liên quan trên thị trường đối với việc nhập khẩu sắt thép.
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê Hải quan
Khi đánh giá về triển vọng của thị trường, những người trong ngành và các cơ quan quản lý Nhà nước của EU thường quan tâm đến sức tiêu thụ, thể hiện qua 2 thông số sau:
+ Mức tiêu thụ thép biểu kiến (dự kiến) - thường được gọi là nhu cầu thép hoặc nguồn cung thị trường - là tổng số thép được cung cấp cho thị trường thép, bao gồm cả các sản phẩm thép đang được dự trữ thay vì tiêu thụ ngay lập tức bởi các ngành sử dụng thép
+ Lượng thép tiêu thụ thực tế - hay lượng thép sử dụng cuối cùng - là lượng thép thực sự được tiêu thụ bởi các ngành sử dụng thép trong quá trình sản xuất của họ.
Sự khác biệt giữa tiêu thụ thép thực tế và biểu kiến là sự thay đổi lượng thép tồn kho trong một thời kỳ nhất định.
Ví dụ trong năm 2021, do lượng tiêu thụ biểu kiến là 148,95 triệu tấn, trong khi lượng tiêu thụ thực tế là 146,12 triệu tấn nên tồn kho sẽ là khoảng 2,8 triệu tấn. Với lượng tồn kho này, nhập khẩu thép tăng sẽ tạo áp lực cho các nhà sản xuất trong nước nếu nhu cầu của năm 2022 không tăng tương ứng.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Hiệp hội thép EU (EUROFER)
Các động thái của EU về phòng vệ thương mại với mặt hàng thép các loại vẫn khá rõ ràng trong năm 2022 và do đó các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này được khuyến nghị luôn ở trong trạng thái “tỉnh táo và cảnh giác”.
Ngay cả các sản phẩm thép không gỉ, cán nguội bị ảnh hưởng - được Ủy ban châu Âu mô tả là “thiết yếu cho… thiết bị năng lượng” nhưng cũng sẽ phải chịu thuế chống trợ cấp là 21% đối với hàng hóa của Indonesia và 7,5% đối với nguồn cung cấp từ Ấn Độ. Các biện pháp cũng bao gồm thuế chống bán phá giá 13,9-35,3% đối với các sản phẩm của Ấn Độ và 10,2-20,2% đối với các sản phẩm tương đương của Indonesia, do Liên minh châu Âu áp dụng kể từ tháng 11/2021.
Các doanh nghiệp được khuyến nghị theo dõi sát sao các thông tin cảnh báo, đồng thời có sự trao đổi kỹ lưỡng về thông tin với các đối tác nhập khẩu sắt thép và sản phẩm sắt thép tại EU để có sự chuẩn bị tốt cả về hồ sơ, chứng từ cũng như tính an toàn của các giao dịch (về mặt pháp lý nói chung và liên quan đến phòng vệ thương mại nói riêng) trước khi kí kết các hợp đồng và giao hàng.
