EU là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 của Việt Nam sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, chiếm tỷ trọng 4,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường EU trong năm 2021, đạt 619,3 triệu USD, tăng 19,1% so với năm 2020, chứng kiến tốc độ tăng trưởng bình quân 6,3%/năm, với kim ngạch xuất khẩu trung bình 546,9 triệu USD/năm trong giai đoạn 2017 – 2021.
11 tháng năm 2022, bất chấp bối cảnh thị trường biến động phức tạp, khó lường, tác động đáng kể đến chuỗi cung ứng, giao thương và sức tiêu thụ hàng hóa tại khu vực, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang EU vẫn ghi nhận kết quả khả quan, đạt 584,9 triệu USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2021.
Biểu đồ 1: Tình hình khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam
tới thị trường EU giai đoạn năm 2017 - 2021 (ĐVT: Triệu USD)
Nguồn: Tính toán theo số liệu từ Tổng cục Hải quan
Về thị trường: Việt Nam xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ chủ yếu tới thị trường Đức, Pháp, Hà Lan trong giai đoạn năm 2017 – 2021. Dẫn đầu là thị trường Đức với tốc độ tăng trưởng bình quân là 4%/năm, đạt kim ngạch trung bình 117,9 triệu USD/năm; tiếp theo là Pháp với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,1%/năm, đạt kim ngạch trung bình 118,1 triệu USD/năm; Hà Lan với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,3%/năm, đạt kim ngạch trung bình 80,4 triệu USD/năm.
Đáng chú ý, thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam tại EU cũng có xu hướng ngày càng mở rộng, đáng chú ý như Bỉ, Đan Mạch khi ghi nhận tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân rất cao, lần lượt là 23,9%/năm và 20,1%/năm trong giai đoạn 2017 – 2021.
Bảng 1: Gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu tới các thị trường trong khối EU
trong giai đoạn năm 2017 – 2021 (ĐVT: % theo trị giá)
Nguồn: Tính toán theo số liệu từ Tổng cục Hải quan
Về mặt hàng: Việt Nam chủ yếu xuất khẩu đồ nội thất bằng gỗ sang thị trường EU với kim ngạch bình quân 456,5 triệu USD/năm, đạt tốc độ tăng trưởng 5,5%/năm trong giai đoạn 2017 – 2021. Trong đó, đồ nội thất phòng khách và phòng ăn, ghế khung gỗ là 2 mặt hàng chính trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu tới EU, ghi nhận tốc độ tăng trưởng bình quân tương ứng là 7,6%/năm và 5%/năm. Ngoài ra, một số sản phẩm từ gỗ khác cũng được xuất khẩu sang EU như gỗ, ván và ván sàn; đồ gỗ mỹ nghệ; cửa gỗ; khung gương... nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Bảng 2: Mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu tới thị trường EU trong giai đoạn năm 2017 – 2021 (ĐVT: % theo trị giá)
Nguồn: Tính toán theo số liệu từ Tổng cục Hải quan
Tình hình EU nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ và thị phần của Việt Nam
Nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm gỗ tại thị trường EU rất lớn. Theo số liệu thống kê từ Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), trong giai đoạn năm 2017 – 2021, trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của EU trung bình đạt 19,1 tỷ EUR, với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,7%/năm. Trong giai đoạn này, EU giảm tỷ trọng nhập khẩu từ các thị trường nội khối và tăng tỷ trọng nhập khẩu từ các thị trường ngoại khối. Về cơ cấu mặt hàng, EU nhập khẩu nhiều nhất mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng ăn, với trị giá nhập khẩu bình quân đạt 7,8 tỷ EUR/năm, tăng trưởng bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 2017 – 2021. Đáng chú ý, năm 2021 mặc dù tình hình đại dịch vẫn diễn biến phức tạp, nhưng nhập khẩu đồ nội thất phòng khách và phòng ăn đạt 9,4 tỷ EUR, tăng 21,2% so với năm 2020. Tiếp theo là mặt hàng ghế khung gỗ, với trị giá nhập khẩu bình quân đạt 5,77 tỷ EUR/năm, tăng trưởng bình quân 7%/năm.
Biểu đồ 2: Trị giá nhập khẩu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ của EU
giai đoạn năm 2017 - 2021 (ĐVT: tỷ EUR)
Nguồn: Eurostat
Theo Eurostat, trong 9 tháng năm 2022 trị giá nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ của EU đạt 18,3 tỷ EUR, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, EU tăng mạnh nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ từ các thị trường ngoại khối, đạt 5,05 tỷ EUR, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Trung Quốc và Việt Nam tiếp tục là những thị trường cung cấp chính đồ nội thất bằng gỗ cho EU trong 9 tháng năm 2022. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Việt Nam tăng trưởng tốt, đạt 549 triệu EUR, chiếm thị phần 3% trong tổng nhập khẩu mặt hàng này của EU và chiếm thị phần 10,9% trong tổng nhập khẩu của EU từ thị trường ngoại khối, tăng 1,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021. Mặc dù là nhà cung ứng ngoại khối lớn thứ 2 cho EU, nhưng thị phần của Việt Nam trong cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của EU vẫn còn khiêm tốn, chiếm cao nhất là mặt hàng ghế khung gỗ với 4,5% tổng trị giá nhập khẩu ghế khung gỗ của EU, tiếp theo là phòng khách và phòng ăn chiếm 3% và đồ nội thất phòng ngủ chiếm 2%. Đây đều là các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, do đó triển vọng xuất khẩu những mặt hàng này rất khả quan, đặc biệt với lợi thế cạnh tranh lớn từ Hiệp định Thương mại tự do EVFTA và Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản Việt Nam – EU (VPA/FLEGT).
Tuy nhiên, EU là một thị trường có yêu cầu rất cao về chất lượng, mẫu mã sản phẩm; các quy định nhập khẩu và tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn sản phẩm, vật liệu xây dựng… hết sức chặt chẽ; đồng thời các công cụ phòng vệ thương mại được áp dụng thường xuyên. Các vấn đề về môi trường, lao động, phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội cũng ngày càng được chú trọng. Ngay cả khi Việt Nam có FTA với EU thì việc có thể thâm nhập và mở rộng thị phần tại EU còn phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh về chất lượng và giá cả, đồng thời cần đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định về xuất xứ hàng hóa để hưởng ưu đãi từ EVFTA.
