Hợp tác thương mại giữa Việt Nam - Thuỵ Điển không ngừng phát triển trong 55 năm qua. Trong những năm gần đây, quan hệ thương mại Việt Nam-Thụy Điển không ngừng phát triển ổn định.
Theo số liệu của Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, tăng trưởng nhập khẩu của Thụy Điển từ Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022 đạt trung bình 9%/năm và đây là một con số khá ấn tượng. Riêng trong năm 2022, giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu sang Thụy Điển đạt 1,264 tỷ USD, tăng 5,4% và nhập khẩu đạt 353 triệu USD, tăng 9,9%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1,617 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2021. Mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Thụy Điển hiện nay là điện thoại các loại, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, dệt may, giầy dép, sản phẩm từ sắt thép, phụ tùng...
Mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Thụy Điển là thiết bị viễn thông, máy móc thiết bị các loại và dược phẩm. Mặt hàng gạo Việt Nam trước đây gần như vắng bóng tại Thụy Điển do không cạnh tranh được với gạo của Campuchia và Thái Lan, thì nay kim ngạch đã tăng lên hơn 3 triệu USD và đang tiếp tục tăng thị phần.
Năm 2023 là năm đầy khó khăn với kinh tế thế giới do tác động kéo dài của nhiều biến động lớn, như xung đột Nga-Ukraine, chính sách zero-COVID của Trung Quốc và phản ứng chính sách của các nước nhằm đối phó với lạm phát. Tổng cầu yếu, chi phí gia tăng kéo theo hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư, thương mại bị thu hẹp. Với bức tranh kinh tế tổng thể như vậy, người tiêu dùng ngày càng bi quan, hạn chế mua sắm và chi tiêu không cần thiết, dẫn đến giảm nhu cầu tiêu dùng và giảm nhập khẩu. Xuất khẩu của Việt Nam ghi nhận sự sụt giảm sâu của nhiều mặt hàng chủ lực. Xuất khẩu sang Thuỵ Điển cũng giảm mạnh trong năm 2023.
Với việc Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA) được ký kết vào ngày 30/6/2019 và có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, cơ hội thương mại mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam và EU, trong đó có Thuỵ Điển, là rất lớn. Tuy nhiên, rất khó để đánh giá hiệu quả của EVFTA sau hơn 3 năm thực thi khi hiệp định đi vào thực hiện đúng trong giai đoạn bất ổn của kinh tế thế giới do đại dịch COVID-19, rồi đến xung đột Nga-Ukraine làm đứt gãy chuỗi cung cầu, khủng hoảng năng lượng, lương thực, lạm phát cao, người dân cắt giảm chi tiêu. Dù vậy, EVFTA giúp giảm nhẹ các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và dần sẽ phát huy hiệu quả. Hiệu quả có thể nhận thấy rõ ràng nhất, đó là ưu đãi về thuế giúp nhiều mặt hàng của Việt Nam có lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ tại thị trường. Ví dụ, mặt hàng gạo, kim ngạch xuất khẩu sang Thụy Điển trước đây chỉ vài chục nghìn đến hơn 100.000 USD do không cạnh tranh được giá với gạo của Campuchia và Thái Lan, thì đến nay kim ngạch đã tăng lên hơn 3 triệu USD và đang từng bước tăng thị phần tại khu vực này. Tương tự, một số mặt hàng nông, thủy sản thuế về 0% ngay năm đầu tiên cũng cho thấy lợi thế cạnh tranh rõ rệt.
Đối với một số mặt hàng chế biến, chế tạo, EVFTA không những mang lại lợi ích về thuế mà còn giúp các doanh nghiệp Thụy Điển hào hứng với thị trường Việt Nam hơn, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp này có nhu cầu lớn về tìm kiếm thị trường mới để chuyển dịch đầu tư và kinh doanh.
Nhiều đoàn doanh nghiệp Bắc Âu đã sang Việt Nam để khảo sát như tập đoàn Autoliv, chuyên sản xuất sản phẩm an toàn dùng trong ôtô, với 72 nhà máy tại nhiều quốc gia trên thế giới và doanh thu bán hàng 8,2 tỷ USD/năm.
Tuy nhiên, thị trường Thuỵ Điển cũng có nhiều thách thức vì dân số ít, chỉ hơn 10 triệu người, thị trường nhỏ, lại có yêu cầu cao đối với hàng hóa tiêu dùng trong nước, nên các doanh nghiệp nước này chủ yếu nhập khẩu từ các đại lý phân phối tại trung tâm EU. Thị trường nhỏ, khoảng cách địa lý lớn trong khi chưa có đường bay thẳng từ Việt Nam, cũng như chưa có các hợp tác về cảng biển và cảng hàng không, cũng gây khó khăn cho việc đưa hàng Việt Nam trực tiếp vào thị trường Thụy Điển. Ngoài ra, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU nói chung và Thụy Điển nói riêng, nếu muốn hưởng ưu đãi thuế quan trước hết phải tuân thủ các quy định về xuất xứ từ giai đoạn sản xuất nguyên liệu. Trong khi đó, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại chưa chủ động được nguồn nguyên liệu nên đây sẽ là một khó khăn, thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài chứng nhận xuất xứ, doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tuân thủ các quy định khắt khe khác, như vấn đề môi trường, tiêu chuẩn kỹ thuật. Vượt qua được các khó khăn này, hàng hóa của Việt Nam sẽ có chỗ đứng vững chắc tại thị trường Thụy Điển nói riêng và thị trường EU nói chung.
Đơn vị: Triệu USD
|
Năm |
2018 |
2019 |
2020 |
2021 |
2022 |
2023 |
|
Xuất khẩu |
1.157 |
1.183 |
1.126 |
1.199 |
1.264 |
946 |
|
Nhập khẩu |
344 |
372 |
352 |
321 |
353 |
342 |
|
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu |
1.501 |
1.555 |
1.478 |
1.520 |
1.617 |
1.288 |
|
Thặng dư |
813 |
811 |
774 |
878 |
911 |
604 |
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu USD
|
Tháng |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
8T/2024 |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Xuất khẩu |
139 |
61 |
79 |
76 |
78 |
77 |
95 |
80 |
685 |
|
Nhập khẩu |
27 |
28 |
27 |
31 |
42 |
30 |
55 |
41 |
281 |
|
Tổng kim ngạch XNK |
166 |
89 |
106 |
107 |
120 |
107 |
150 |
121 |
966 |
|
Thặng dư |
112 |
33 |
52 |
45 |
36 |
33 |
40 |
39 |
404 |
Nguồn: Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thụy Điển đạt 1,288 triệu USD, giảm 329 triệu USD tương đương -20,34% so với năm 2022, trong đó xuất khẩu đạt xấp xỉ 946 triệu USD, nhập khẩu đạt 342 triệu USD, xuất siêu tiếp tục được duy trì ở mức cao là 604 triệu USD nhưng giảm 307 triệu USD, tương đương -33,69% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 8 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thụy Điển đạt gần 966 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt xấp xỉ 685 triệu, nhập khẩu 281 triệu, xuất siêu tiếp tục được duy trì ở mức cao là 404 triệu USD.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu hàng hóa của Thụy Điển sang Việt Nam tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm 2024 đạt 281,34 triệu USD, tăng 22,07 % so với cùng kỳ năm ngoái đạt 102,4 triệu USD. Riêng trong tháng 8/2024, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 44 triệu USD, giảm 25,38 % so với tháng 7/2024 nhưng tăng 59,90 % so với tháng 8/2023.
Đơn vị: nghìn USD
|
Tên sản phẩm |
Tháng 7/2024 |
Tháng 8/2024 |
Tháng 8/2024 so với tháng 7/2024 (%) |
|
Tổng giá trị |
55.026.955 |
41.061.008 |
-25,38 |
|
Sản phẩm khác từ dầu mỏ |
373.318 |
28.332 |
-92,41 |
|
Sản phẩm hóa chất |
1.183.380 |
1.528.218 |
29,14 |
|
Dược phẩm |
20.928.732 |
11.914.419 |
-43,07 |
|
Chất dẻo nguyên liệu |
466.530 |
162.985 |
-65,06 |
|
Sản phẩm từ chất dẻo |
963.927 |
767.929 |
-20,33 |
|
Gỗ và sản phẩm gỗ |
690.675 |
873.181 |
26,42 |
|
Giấy các loại |
5.529.451 |
2.889.504 |
-47,74 |
|
Sắt thép các loại |
1.527.802 |
1.040.716 |
-31,88 |
|
Sản phẩm từ sắt thép |
380.667 |
813.260 |
113,64 |
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
975.926 |
97.782 |
-89,98 |
|
Điện thoại các loại và linh kiện |
45.815 |
|
-100 |
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
17.473.848 |
17.125.065 |
-2 |
|
Hàng hóa khác |
4.486.884 |
3.819.618 |
-14,87 |
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 8 tháng đầu năm 2024, nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam của Thụy Điển đạt 685,4 triệu USD, tăng 6,66 % so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, điện thoại các loại và linh kiện là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất với kim ngạch 238 triệu USD, giảm 12,49 % so với cùng kỳ năm ngoái, tiếp theo là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 77,5 triệu USD, tăng 2,82%; hàng dệt may đạt 65,7 triệu USD, tăng 6,67%.
Đơn vị: USD
|
Tên nhóm/mặt hàng |
Tháng 8/2024 |
8 tháng đầu năm 2024 |
|||
|---|---|---|---|---|---|
|
Trị giá (USD) |
So T7/2024 (%) |
So T8/2023 (%) |
Trị giá (USD) |
So 8T/2023 (%) |
|
|
Tổng trị giá |
79.255.965 |
-16,68 |
9,67 |
685.437.862 |
6,66 |
|
Hàng thủy sản |
1.389.010 |
-29,96 |
-21,72 |
15.161.731 |
17,7 |
|
Sản phẩm từ chất dẻo |
2.070.200 |
5,35 |
74,88 |
14.155.158 |
70,71 |
|
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù |
2.012.661 |
-4,55 |
-10,1 |
17.069.799 |
5,83 |
|
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm |
835.620 |
-29,28 |
25,56 |
5.944.259 |
0,73 |
|
Gỗ và sản phẩm gỗ |
1.068.050 |
-3,9 |
-0,82 |
13.735.300 |
34,59 |
|
Giầy dép các loại |
3.411.756 |
-14,45 |
75,8 |
35.994.265 |
3 |
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày |
1.101.677 |
259,81 |
73,97 |
3.606.739 |
31,17 |
|
Sản phẩm từ sắt thép |
1.230.469 |
-19,81 |
75,16 |
7.285.516 |
-14,62 |
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
9.129.012 |
38,25 |
27,68 |
64.362.411 |
23,71 |
|
Điện thoại các loại và linh kiện |
19.290.160 |
-36,33 |
-35,79 |
238.066.257 |
-12,49 |
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
10.122.281 |
-47,75 |
21,45 |
77.558.251 |
2,82 |
|
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận |
689.683 |
-57,16 |
17,05 |
7.161.269 |
36,81 |
|
Hàng dệt may |
12.366.747 |
8,43 |
105,35 |
65.796.993 |
6,67 |
|
Hàng hóa khác |
14.538.641 |
27,33 |
47,04 |
119.539.913 |
56,28 |
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Tổng Cục Hải Quan Việt Nam
Nguồn: Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Vitic)
