1. Đối tượng của tranh chấp
Đối với tranh chấp giữa Nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư, Nguyên đơn được hiểu là nhà đầu tư của một bên thành viên Hiệp định có tranh chấp đầu tư với một bên thành viên khác; trong khi đó, Bị đơn được hiểu là một quốc gia thành viên CPTPP mà một bên tranh chấp đầu tư.[1]
Theo Hiệp định CPTPP, Nhà đầu tư CPTPP có quyền khởi kiện nhân danh mình hoặc nhân danh doanh nghiệp mà Nhà đầu tư CPTPP sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp.[2]
Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư CPTPP là thể nhân thường trú tại một Bên và có quốc tịch của Bên khác, thể nhân đó không được trình khiếu kiện đối với Bên mà thể nhân mang quốc tịch.[3] Ví dụ, nếu nhà đầu tư CPTPP là cá nhân có quốc tịch Việt Nam nhưng cư trú thường xuyên tại một nước CPTPP khác thì không được quyền kiện Nhà nước Việt Nam theo Cơ chế này.
2. Phạm vi của tranh chấp
Nguyên đơn (Nhà đầu tư) có thể khởi kiện Bị đơn (nước tiếp nhận đầu tư) theo cơ chế ISDS trên cơ sở: (i) Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo quy định tại Mục A Chương 9 Hiệp định CPTPP; và Nguyên đơn phải chịu tổn thất hoặc thiệt hại vì lý do hoặc xuất phát từ vi phạm này của Bị đơn.[4]
Các nghĩa vụ mà Bị đơn bị cho là vi phạm áp dụng đối với các biện pháp được ban hành hoặc thực hiện bởi: (a) cơ quan, chính quyền cấp trung ương, vùng hoặc địa phương của Bên đó; và (b) bất kỳ tổ chức, cá nhân nào, bao gồm doanh nghiệp nhà nước hoặc các tổ chức khác khi thực thi quyền hạn do chính phủ hoặc chính quyền cấp trung ương, vùng hay địa phương của Bên đó ủy nhiệm.[5]
3. Quy trình giải quyết tranh chấp theo Cơ chế ISDS
Bước 1: Tham vấn và Thương lượng
Khi có tranh chấp phát sinh, các bên tranh chấp trước hết cần tìm cách giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp như tham vấn và thương lượng, có thể bao gồm thủ tục có sự tham gia của bên thứ ba như thông qua trung gian, hoà giải hoặc dàn xếp.[6]
Nguyên đơn sẽ gửi cho Bị đơn yêu cầu tham vấn bằng văn bản mô tả tóm tắt sự kiện liên quan đến biện pháp hoặc các biện pháp tranh chấp. Nếu tranh chấp đầu tư không được giải quyết trong vòng 6 tháng kể từ ngày Bị đơn nhận được yêu cầu tham vấn bằng văn bản, Nguyên đơn có thể tiến hành khiếu kiện Bị đơn theo hình thức trọng tài.[7]
Theo Hiệp định CPTPP, đây là giai đoạn bắt buộc trong quy trình giải quyết tranh chấp. Đây cũng là một phương thức phổ biến trong giải quyết tranh chấp nói chung, hỗ trợ Nhà đầu tư và nước nhận đầu tư cùng tìm ra một giải pháp chung tháo gỡ những mâu thuẫn với tinh thần cởi mở, giảm bớt xung đột nhằm góp phần giữ gìn mối quan hệ đầu tư tối đẹp giữa hai bên. Đồng thời, giải pháp này giúp hai Bên tránh lãng phí thời gian cũng như tiền bạc cho hoạt động tố tụng trọng tài ở giai đoạn sau và hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà đầu tư sớm khôi phục hoạt động như bình thường.
Bước 2: Trọng tài
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp chính và là bước thứ hai trong cơ chế ISDS của Hiệp định CPTPP. Như đã đề cập ở trên, trong trường hợp hai Bên không thể giải quyết mâu thuẫn bằng tham vấn và thương lượng, Nguyên đơn có thể khiếu kiện Bị đơn ra trọng tài.
Về thủ tục trọng tài, Hiệp định CPTPP cho phép Nguyên đơn trình khiếu kiện theo một trong bốn lựa chọn như sau:
(a) Công ước ICSID và Quy tắc về Thủ tục Tố tụng Trọng tài của ICSID, với điều kiện cả Bị đơn và Quốc gia của Nguyên đơn là thành viên của Công ước ICSID;
(b) theo Cơ chế phụ trợ ICSID, với điều kiện Bị đơn hoặc Quốc gia của Nguyên đơn là thành viên của Công ước ICSID;
(c) theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL; hoặc
(d) theo thiết chế hoặc quy tắc trọng tài khác nếu Nguyên đơn và Bị đơn đồng ý.[8]
Về hội đồng trọng tài, hội đồng trọng tài sẽ gồm 3 trọng tài, mỗi trọng tài sẽ do các bên tranh chấp chỉ định và trọng tài thứ ba là trọng tài chủ toạ, sẽ do các bên tranh chấp thống nhất chỉ định.[9]
Về tính minh bạch trong thủ tục trọng tài, Bị đơn phải ngay lập tức chuyển cho các nước không tranh chấp và công bố công khai các tài liệu sau (trừ các thông tin mật):
1) Thông báo ý định khởi kiện;
2) Thông báo trọng tài;
3) Cáo buộc, biện hộ, ý kiến, bản tóm tắt của một bên tranh chấp trình ra trọng tài và bất kì văn bản đệ trình nào;
4) Biên bản hoặc bản ghi lại các trao đổi tại phiên toà của trọng tài (nếu có); và
5) Lệnh, phán quyết và quyết định của trọng tài.[10]
Ngoài ra, phiên xét xử trọng tài là phiên toà công khai. Trường hợp các bên tranh chấp dự định sử dụng thông tin cần phải được bảo mật thì phải thông báo trước cho hội đồng trọng tài để thu xếp cần thiết để bảo vệ thông tin đó không bị tiết lộ.
Về phán quyết và thực thi phán quyết của trọng tài, Hiệp định CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết trong 120 ngày đối với trường hợp phán quyết cuối cùng theo Công ước ICSID và 90 ngày đối với trường hợp phán quyết cuối cùng theo Cơ chế Phụ trợ ICSID, Quy tắc trọng tài UNCITRAL.[11] Sau thời hạn nói trên, hai Bên cam kết công nhận và tổ chức thi hành phán quyết cuối cùng trên lãnh thổ của mình.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
[1] Điều 9.1 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[2] Điều 9.19 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[3] Điều 9.1 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[4] Điều 9.19 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[5] Điều 9.2 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[6] Điều 9.18 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[7] Điều 9.19 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[8] Điều 9.19.4 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[9] Điều 9.22.1 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[10] Điều 9.24.1 Chương 9 Hiệp định CPTPP
[11] Điều 9.29.9 Chương 9 Hiệp định CPTPP
