1. Mục tiêu
Về cơ bản, nội dung Chương về giải quyết tranh chấp trong VIFTA và EVFTA đều hướng đến mục tiêu giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình nhằm giảm bớt xung đột giữa các Bên, đảm bảo môi trường ổn định và vững mạnh làm nguồn gốc cho phát triển thương mại, cũng như tránh lãng phí thời gian và tiền bạc của hai Bên cho các hoạt động tố tụng ở nước ngoài.
Theo đó, việc giải quyết tranh chấp trên cơ sở đồng thuận giữa hai Bên, thông qua các biện pháp như tham vấn, hòa giải là một nội dung quan trọng trong cơ chế giải quyết tranh chấp trong cả VIFTA và EVFTA.
2. Đối tượng
Mặc dù đều quy định cơ chế giải quyết tranh chấp áp dụng đối với mọi tranh chấp giữa các Bên liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các điều khoản của Hiệp định trừ trường hợp có quy định khác, Hiệp định VIFTA cụ thể hóa các trường hợp một bên có thể khởi động việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp khi Bên đó nhận thấy có các trường hợp như:
(i) một biện pháp của Bên kia không phù hợp với nghĩa vụ theo Hiệp định;
(ii) Bên kia không thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp định;
(iii) lợi ích được kỳ vọng một cách hợp lý theo quy định của Chương Thương mại hàng hóa, Quy tắc Xuất xứ hoặc Thủ tục Hải quan và Thuận lợi hóa Thương mại) đang bị vô hiệu hóa hoặc suy giảm do hậu quả của việc áp dụng biện pháp không phù hợp với Hiệp định.
Việc đặt ra các quy định cụ thể về phạm vi áp dụng sẽ đặt ra trách nhiệm cho một Bên nhằm xác định liệu vấn đề mà Bên đó đặt ra có phù hợp với phạm vi giải quyết tranh chấp theo Hiệp định VIFTA hay không, đồng thời là một yếu tố để cơ quan giải quyết tranh chấp xem xét trong các tiến trình tiếp theo khi các Bên không đạt được thỏa thuận thông qua các biện pháp giải quyết tranh chấp hòa bình.
3. Quy trình giải quyết tranh chấp
Không có nhiều điểm khác biệt trong quy trình giải quyết tranh chấp giữa VIFTA và EVFTA, cũng như không có nhiều điểm đột phá giữa cả hai Hiệp định với các Hiệp định thương mại tự do khác mà Việt Nam là thành viên. Về cơ bản, quy trình giải quyết tranh chấp của EVFTA và VIFTA sẽ đi theo quy trình bao gồm các bước cơ bản là tham vấn, trung gian, hòa giải và trọng tài.
Về tham vấn, mặc dù cả hai Hiệp định đều đặt ra yêu cầu bắt buộc đối với việc giải quyết tranh chấp bằng tham vấn, Hiệp định EVFTA có quy định cụ thể về việc cho phép hai Bên khởi động thủ tục trọng tài khi có thỏa thuận về việc không tổ chức tham vấn.
Ngoài ra, một trong những điểm khác biệt rõ rệt giữa VIFTA và EVFTA nằm ở thời hạn cho mỗi giai đoạn. Ví dụ, đối với VIFTA, thời hạn để hai Bên tiến hành tham vấn là 60 ngày (hoặc 25 ngày đối với trường hợp khẩn cấp bao gồm hàng hóa dễ hư hỏng) kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Trong khi đó, thời hạn này theo EVFTA là 45 ngày (hoặc 20 ngày đối với trường hợp khẩn cấp bao gồm hàng hóa dễ hư hỏng) kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Sau thời hạn nói trên, hai Bên có thể khởi động thủ tục trọng tài nếu không thể giải quyết tranh chấp bằng tham vấn.
Về trung gian và hòa giải, cả hai Hiệp định đều quy định các Bên có thể tiến hành thủ tục này ở bất kỳ giai đoạn nào. Đây cũng là một biện pháp giải quyết tranh chấp được khuyến khích nhằm đi đến một giải pháp đồng thuận và thoả đáng cho cả hai Bên. Khi một giải pháp được cả hai Bên nhất trí, hai Bên phải thông báo về giải pháp này đến Uỷ ban thương mại để kết thúc tranh chấp. Tuy nhiên, với tính chất đa quốc gia của Liên minh châu Âu, EVFTA bổ sung thêm quy định về trường hợp giải pháp đòi hỏi phê chuẩn theo quy định trong nước, khi đó thông báo cần đề cập đến yêu cầu này và thủ tục giải quyết tranh chấp sẽ bị tạm ngừng.
Về trọng tài, thủ tục trọng tài được tiến hành khi tranh chấp không được giải quyết bằng tham vấn, trung gian hay hoà giải. Cả hai Hiệp định bao hàm các nội dung liên quan đến thủ tục thành lập Hội đồng trọng tài, quy trình thủ tục trọng tài và việc thi hành phán quyết của trọng tài. Hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên được chỉ định và thống nhất, thực hiện thủ tục trọng tài theo quy định của Hiệp định. Ngoài ra, EVFTA có thêm quy định về danh sách trọng tài viên được thành lập bởi Uỷ ban Thương mại. Danh sách này có 3 danh sách phụ bao gồm danh sách của Liên minh, danh sách của Việt Nam và danh sách các cá nhân không phải công dân của các Bên và không có hộ khẩu thường trú tại các Bên để chọn làm chủ tịch của Hội đồng trọng tài.
Về phán quyết, phán quyết của Hội đồng trọng tài đều mang tính chất chung thẩm, ràng buộc hai Bên phải thi hành. Thậm chí EVFTA còn quy định báo cáo và phán quyết của hội đồng trọng tài phải được các Bên chấp thuận vô điều kiện, cho thấy giá trị pháp lý rất cao của phán quyết trọng tài theo cơ chế giải quyết tranh chấp của EVFTA.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
