1. Phạm vi
Trừ những tranh chấp được quy định tại Chương 10 về Mua sắm Chính phủ và một số quy định khác, những quy định liên quan đến quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp tại Chương 14 Hiệp định VIFTA áp dụng đối với mọi tranh chấp giữa các bên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Hiệp định khi bên còn lại nhận thấy:
- Biện pháp của bên kia không phù hợp với các nghĩa vụ theo Hiệp định này;
- Bên kia đã không thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp định này;
- Lợi ích được kỳ vọng một cách hợp lý theo quy định của Chương 2 (Thương mại Hàng hóa), 3 (Quy tắc Xuất xứ), hoặc 4 (Thủ tục Hải quan và Thuận lợi hóa Thương mại) đang bị vô hiệu hóa hoặc suy giảm do hậu quả của việc áp dụng biện pháp không phù hợp với Hiệp định này, theo nghĩa của Điều XXIII:1(b) Hiệp định GATT 1994.
2. Quy trình giải quyết tranh chấp
Bước 1: Tham vấn
Tương tự các Hiệp định thương mại tự do khác, tham vấn là thủ tục bắt buộc trong quy trình giải quyết tranh chấp theo Hiệp định VIFTA.
Theo đó, Bên đề nghị tham vấn phải gửi yêu cầu tham vấn phải bằng văn bản, nêu rõ lý do yêu cầu tham vấn, bao gồm việc xác định biện pháp và cơ sở pháp lý của yêu cầu tham vấn, bao gồm các quy định của Hiệp định được cho là đã áp dụng. Tham vấn sẽ diễn ra trên lãnh thổ của bên bị yêu cầu tham vấn, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Hiệp định VIFTA nhấn mạnh vai trò của tham vấn trong quy trình giải quyết tranh chấp bằng việc yêu cầu hai bên phải thực hiện mọi nỗ lực nhằm đạt được giải pháp thoả đáng chung đối với mọi vấn đề, thông qua các hành động bao gồm:
- Cung cấp đầy đủ thông tin có thể có một cách hợp lý nhằm cho phép đánh giá đầy đủ xem vấn đề hoặc biện pháp bị tham vấn có thể ảnh hưởng thế nào đến hoạt động của Hiệp định;
- Bảo mật bất kỳ thông tin nào được trao đổi trong quá trình tham vấn.
Bước 2: Trung gian, hoà giải
Trên thực tế, trung gian và hoà giải là những biện pháp giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành cũng như tạm hoãn hoặc chấm dứt bất kỳ lúc nào bởi một trong hai bên.
Với bản chất là một biện pháp giải quyết tranh chấp hoà bình, sự khác biệt giữa tham vấn và trung gian, hoà giải nằm ở sự có mặt của hoà giải viên, người đóng vai trò trung gian hoà giải và chuyên gia thay vì hai bên tự trao đổi để đi đến giải pháp chung.
Bước 3: Trọng tài
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp cuối cùng khi hai bên không thể giải quyết tranh chấp bằng tham vấn, trung gian và hoà giải. Khi đó, một bên có thể yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài, trong đó nêu rõ biện pháp cụ thể hoặc nội dung khác có vấn đề, và trình bày rõ ràng cơ sở pháp lý của việc khởi kiện, bao gồm các điều khoản có liên quan của Hiệp định.
Hội đồng Trọng tài gồm có 3 thành viên, đáp ứng các yêu cầu được quy định tại Hiệp định và không được là cá nhân đã tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp thông qua trung gian, hoà giải.
Trường hợp các bên nhất trí, Hội đồng Trọng tài có thể tạm dừng hoạt động tại bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn không quá 12 tháng kể từ ngày các Bên có thỏa thuận. Trường hợp hoạt động của hội đồng trọng tài bị tạm dừng quá 12 tháng, thẩm quyền của hội đồng trọng tài sẽ mất hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Phán quyết của trọng tài được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận. Trong trường hợp không thể đạt được đồng thuận, Hội đồng Trọng tài phải thông qua phán quyết của mình theo nguyên tắc bỏ phiếu đa số.
Báo cáo cuối cùng của Hội đồng Trọng tài có giá trị chung thẩm, ràng buộc pháp lý giữa hai bên và phải được tuân thủ ngay lập tức, trừ khi hai bên có thoả thuận khác. Trong trường hợp một bên không tuân thủ báo cáo theo khoảng thời gian đã quy định hoặc thoả thuận, nếu bên khởi kiện yêu cầu, bên đó phải tiến hành tham vấn nhằm đạt được thỏa thuận chung về mức bồi thường.
Trường hợp không đạt được thỏa thuận trong vòng 20 ngày kể từ ngày có yêu cầu, bên khởi kiện có quyền tạm ngừng áp dụng các ưu đãi tương đương với những lợi ích bị ảnh hưởng bởi biện pháp bị kiện mà Hội đồng Trọng tài cho là không phù hợp theo Hiệp định này.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
