Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc-Niu Di-lân (AANZFTA) là Hiệp định tự do toàn diện đầu tiên giữa ASEAN và các đối tác. AANZFTA có hiệu lực vào ngày 01/01/2010 và Nghị định thư thứ nhất sửa đổi AANZFTA (NĐT1) có hiệu lực với Việt Nam vào ngày 01/10/2015. Ngày 21/8/2023, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN - Australia - New Zealand được tổ chức tại Semarang, Indonesia, các Bộ trưởng Kinh tế từ Brunei Darussalam (Điều phối viên Quốc gia ASEAN về AANZFTA) và Indonesia (Chủ tịch ASEAN 2023), cùng với Australia và New Zealand đã ký Nghị định thư thứ hai sửa đổi Hiệp định thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN-Australia - New Zealand (NĐT2). Về phía Việt Nam, trên cơ sở phê duyệt của Chính phủ tại Nghị quyết số 07/NQ-CP ngày 05/01/2024, Bộ trưởng Bộ Công Thương thay mặt Chính phủ ký NĐT2 theo hình thức luân phiên vào ngày 25/01/2024. NĐT2 dự kiến có hiệu lực với Việt Nam vào đầu năm 2025 với những điều khoản nâng cấp ở tất cả các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh và hợp tác kinh tế. Cam kết về xuất xứ hàng hoá cũng được sửa đổi, nâng cấp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Tại Nghị định thư 2, 17 nội dung về quy tắc xuất xứ được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tham khảo các quy định của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA), bao gồm: tự chứng nhận xuất xứ, quy định về nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ, chứng từ xuất xứ ở dạng điện tử, trao đổi dữ liệu xuất xứ điện tử, vận chuyển trực tiếp, quy định về giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) giáp lưng, hoá đơn bên thứ ba, hưởng ưu đãi thuế và hoàn thuế, cấp C/O thay thế trong trường hợp lỗi, thời gian cấp C/O, cộng gộp toàn phần, tiêu chí xuất xứ tại danh mục quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR), danh mục thông tin tối thiểu và một số nội dung khác. Trong đó, một số điểm mới nổi bật nhất tại NĐT2 có thể kể tới: cơ chế cộng gộp toàn phần, nâng cấp quy tắc cụ thể mặt hàng và quy định về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
* Cơ chế cộng gộp toàn phần
Nếu như NĐT1 chỉ có điều khoản về cộng gộp thông thường quy định việc nguyên liệu đáp ứng tiêu chí xuất xứ của Hiệp định thì sẽ được cộng gộp 100% trị giá của nguyên liệu vào công đoạn sản xuất tiếp theo để tính xuất xứ cho thành phẩm, thì NĐT2 đã bổ sung cam kết về cộng gộp toàn phần. Theo đó, công đoạn sản xuất hoặc giá trị gia tăng của nguyên liệu không có xuất xứ tại lãnh thổ của một hoặc nhiều nước thành viên sẽ tính vào thành phần xuất xứ của hàng hóa hoặc nguyên liệu khi xác định xuất xứ của hàng hóa hoặc nguyên liệu cuối cùng tại lãnh thổ của một nước thành viên, bất kể quá trình sản xuất hoặc giá trị gia tăng có đủ để xác định xuất xứ của chính nguyên liệu đó hay không. NĐT2 quy định song song hai cơ chế cộng gộp và các nước thành viên có thể lựa chọn tham gia hoặc không tham gia cộng gộp toàn phần. Với cơ chế cộng gộp toàn phần, hàng hoá xuất khẩu sẽ dễ dàng đáp ứng tiêu chí xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan hơn vì cơ chế cho phép cộng gộp bất kỳ công đoạn sản xuất và giá trị gia tăng ở nước thành viên tham gia nào, cơ chế giúp giảm chi phí sản xuất và đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu cho sản phẩm xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có kinh phí đầu tư vào dây chuyền sản xuất.
* Nâng cấp PSR
NĐT2 sửa đổi tiêu chí xuất xứ tại Phụ lục PSR và thực hiện chuyển đổi PSR nâng cấp từ Phiên bản HS 2017 sang Phiên bản HS 2022 theo cam kết tại NĐT2. Theo đó, 253 dòng hàng được thay đổi tiêu chí xuất xứ theo hướng “lỏng” hơn, tập trung ở các mặt hàng thuộc: Nhóm 2710 (mặt hàng dầu); Chương 72, 73 (mặt hàng sắt hoặc thép); Chương 84, 85 (mặt hàng máy móc, thiết bị,…); Phân nhóm 8708 (bộ phận, phụ kiện của xe có động cơ) và Chương 90 (Máy ảnh, máy quay phim, la bàn, thiết bị y tế,…).
* Quy định về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hoá
Theo quy định tại NĐT2, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa bao gồm (1) giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) áp dụng ngay sau NĐT2 có hiệu lực, (2) chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà xuất khẩu đủ điều kiện áp dụng ngay sau khi NĐT2 có hiệu lực và (3) chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất áp dụng đối với Việt Nam trong thời gian không quá 10 năm sau ngày hiệu lực của NĐT2 và có thể kéo dài thời gian chuyển tiếp không quá 10 năm. Như vậy, so với NĐT1, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ được bổ sung tương tự như đối với Hiệp định RCEP. Tại Việt Nam, sau khi hành lang pháp lý trong nước được hoàn thiện và các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung tương ứng, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá cho hàng xuất khẩu sẽ được thực hiện phù hợp với cam kết quốc tế và pháp luật Việt Nam về xuất xứ hàng hoá.
Để nội luật hoá cam kết về xuất xứ hàng hoá tại NĐT2, Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Thông tư quy định Quy tắc xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN - Úc-Niu Di-lân, thay thế Thông tư số 31/2015/TT-BCT ngày 24 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định Thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Niu di lân, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 07/2020/TT-BCT ngày 30 tháng 3 năm 2020, Thông tư số 07/2020/TT-BCT ngày 30 tháng 3 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 31/2015/TT-BCT và Thông tư số 02/2024/TT-BCT ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Bộ trưởng Bộ Công Thương sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 31/2015/TT-BCT (Dự thảo 02 Thông tư tại đây). Thông tư trên dự kiến có hiệu lực trong năm 2025. Sau khi có hiệu lực, các cam kết tại NĐT2 được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu tận dụng ưu đãi từ Hiệp định, qua đó thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AANZFTA.
Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương
