Dệt may là một trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường CPTPP. Tại Hiệp định CPTPP, quy tắc xuất xứ nói chung áp dụng cho hàng dệt may vẫn theo quy định tại Chương 3 về Quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ. Tuy nhiên, quy tắc cụ thể mặt hàng và một số quy định đặc biệt cho hàng dệt may lại được quy định tại một Chương riêng so với các sản phẩm khác, đó là Chương 4 (Dệt may) của Hiệp định CPTPP.
Về cơ bản, tiêu chí xuất xứ đối với hàng dệt may trong CPTPP chặt hơn so với các Hiệp định thương mại tự do khác mà Việt Nam đang tham gia khi được xây dựng trên nguyên tắc “từ sợi trở đi” (Yarn forward). Điều này có nghĩa là Hiệp định CPTPP yêu cầu quá trình sản xuất hàng dệt may phải sử dụng sợi và vải được sản xuất trong nội khối CPTPP. Đồng thời, các sản phẩm dệt may cũng phải được cắt hoặc dệt thành hình, hoặc cả hai, và được may hoặc ghép bằng cách khác tại lãnh thổ của một hoặc nhiều Nước thành viên CPTPP.
Quy tắc cụ thể mặt hàng cho hàng dệt may được hướng dẫn tại Phụ lục VII, Thông tư số 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 1 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương, thương nhân có thể tra cứu danh mục PSR bằng tiếng Việt tại Phụ lục này.
Bên cạnh đó, Hiệp định CPTPP cũng yêu cầu hàng dệt may phải đáp ứng đồng thời các quy định về chỉ may và sợi co giãn. Cụ thể:
- Trường hợp hàng dệt may sử dụng chỉ khâu từ bông (HS 52.04), chỉ khâu từ sợi filament nhân tạo (HS 54.01), chỉ khâu từ xơ stapble nhân tạo (HS 55.08), hoặc sử dụng sợi filament tổng hợp (HS 54.02) làm chỉ may thì chỉ may này phải được xe và hoàn thiện tại lãnh thổ của một hoặc nhiều Nước thành viên.
- Trường hợp hàng dệt may có chứa sợi co giãn (sợi đàn hồi hoặc sợi cao su) trong thành phần chính của sản phẩm thì sợi co giãn đó phải được xe và hoàn thiện tại lãnh thổ của một hoặc nhiều Nước thành viên.
Quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong CPTPP khá chặt chẽ, nên Hiệp định này cũng quy định một số linh hoạt được áp dụng cho hàng dệt may.
- Linh hoạt thứ nhất là có 3 nhóm hàng chỉ cần áp dụng công đoạn “cắt và may” tại lãnh thổ các nước thành viên CPTPP thì được coi là có xuất xứ, đó là: túi xách (HS 42.02), áo ngực phụ nữ (HS 6212.10) và quần áo trẻ em làm từ sợi tổng hợp (HS 6111.20 và 6209.30)
- Linh hoạt thứ hai là Danh mục nguồn cung thiếu hụt: danh mục này quy định một số loại sợi và vải được phép sử dụng nguồn cung ngoài khu vực CPTPP để sản xuất hàng dệt may tương ứng. Danh mục này bao gồm 187 loại sợi và vải, trong đó có 8 dòng là tạm thời được sử trong thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực và 179 dòng cố định.
- Thêm một linh hoạt khác cho hàng dệt may trong CPTPP đó là Tỷ lệ De Minimis áp dụng đối với nguyên liệu không có xuất xứ mà không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hoá. Theo đó, Hiệp định CPTPP cho phép sử dụng các nguyên liệu này đến tối đa 10% tổng trọng lượng của hàng dệt may được sản xuất ra.
- Linh hoạt cuối cùng đó là quy định về cộng gộp toàn phần. Theo đó, toàn bộ quy trình sản xuất hàng dệt may (từ xơ đến sợi, sau đó dệt vải và may thành quần áo) được diễn ra tại lãnh thổ của một hoặc nhiều nước thành viên CPTPP thì sản phẩm dệt may cuối cùng được coi là có xuất xứ mà không tính đến xuất xứ của nguyên liệu được tạo ra trong quá trình sản xuất.
Doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp mới xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP theo Hiệp định CPTPP, đã gặp phải nhiều bỡ ngỡ trong việc đọc và hiểu các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa tại Hiệp định này đối với sản phẩm dệt may. Để có thể áp dụng một cách chuẩn xác, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải hiểu rõ và hiểu đúng quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CPTPP.
Như vậy, trong ngắn hạn, việc đáp ứng quy tắc xuất xứ cho hàng dệt may xuất khẩu sang CPTPP để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định CPTPP sẽ vẫn còn là hạn chế đối với ngành dệt may Việt Nam. Trong dài hạn, khi mức thuế suất hàng dệt may tiếp tục được cắt giảm sâu tạo động lực cho ngành cũng như việc hình thành các chuỗi sản xuất khép kín từ nguyên liệu thô đến thành phẩm hoàn thiện cuối cùng sẽ giúp ngành dệt may Việt Nam tận dụng sâu các ưu đãi từ Hiệp định CPTPP mang lại.
Nguồn: Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương
