Ngày 24 tháng 01 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 232/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là “Đề án”). Đây là một bước đi quan trọng của Việt Nam trong việc ứng phó biến đổi khí hậu thông qua cơ chế thị trường, đồng thời đưa nước ta tiến gần hơn đến mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế về quản lý khí nhà kính. Thị trường các-bon, theo Đề án, được thiết kế nhằm tạo cơ chế định giá cho phát thải khí nhà kính, khuyến khích các doanh nghiệp giảm phát thải, và phát triển các dự án xanh, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh các ràng buộc carbon ngày càng được áp dụng trên thế giới.
Thị trường các-bon và giao dịch trên thị trường các-bon
Theo nội dung đã đề ra trong Đề án, thị trường các-bon Việt Nam sẽ hoạt động dựa trên hai loại hàng hóa chính, bao gồm hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon.
(i) Hạn ngạch phát thải là chỉ số được phân bổ cho các cơ sở thuộc Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Việc phân bổ hạn ngạch này có thể thực hiện theo hai phương thức, bao gồm miễn phí và đấu giá. Với phương thức miễn phí, hạn ngạch được cấp trực tiếp cho các cơ sở dựa trên lịch sử mức phát thải hoặc các tiêu chí cụ thể do cơ quan quản lý xác định. Trong khi đó với phương thức đấu giá, các cơ sở có thể tham gia đấu giá hạn ngạch phát thải, qua đó cơ chế giá cả được thiết lập trên cơ sở cung – cầu, phản ánh chi phí thực sự của phát thải các-bon và tạo động lực kinh tế để các cơ sở giảm phát thải.
(ii) Tín chỉ các-bon (bao gồm các loại tín chỉ được xác nhận giao dịch trên thị trường trong nước là tín chỉ phát sinh từ các chương trình hoặc dự án thực hiện theo cơ chế trao đổi và bù trừ tín chỉ các-bon trong nước, tuân thủ các quy định pháp luật Việt Nam). Các dự án này có thể bao gồm các hoạt động tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo hoặc giảm phát thải từ các ngành công nghiệp nặng. Tín chỉ các-bon quốc tế bao gồm các tín chỉ thu được từ các chương trình, dự án quốc tế, phù hợp với các cơ chế toàn cầu, cụ thể là cơ chế Phát triển sạch (CDM) với tín chỉ thu được từ các dự án giảm phát thải tại Việt Nam nhưng được công nhận theo chuẩn CDM của Liên hợp quốc; cơ chế Tín chỉ chung (JCM) với tín chỉ phát sinh từ các dự án hợp tác song phương với các quốc gia khác; và cơ chế theo Điều 6 Thỏa thuận Paris với các tín chỉ được công nhận theo các quy định quốc tế trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris, hướng tới mục tiêu giảm phát thải toàn cầu.
Bên cạnh đó, Đề án cũng quy định phương thức tập trung dùng cho giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon trên sàn giao dịch các-bon trong nước. Cụ thể, hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon do Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ Tài nguyên và Môi trường) xác nhận được giao dịch trên sàn sẽ được cấp mã số trong nước để phục vụ cho việc giao dịch, mã số được cấp là duy nhất và không trùng lắp. Chủ thể khi tham gia giao dịch trên thị trường các-bon tại Việt Nam phải có tài khoản lưu ký giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính hoặc tài khoản lưu ký giao dịch tín chỉ các-bon. Hoạt động đăng ký và cấp mã số hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon được thực hiện tập trung để bảo đảm dữ liệu được thống nhất, đồng bộ và đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát.
Lộ trình triển khai thị trường các-bon
Lộ trình triển khai thị trường các-bon từ năm 2025 đến năm 2029 cũng được đề cập trong Đề án, gồm hai giai đoạn: (i) giai đoạn thí điểm từ năm 2025 đến hết năm 2028 và (ii) giai đoạn vận hành chính thức từ năm 2029.
Trong giai đoạn 2025 -2028, toàn bộ hạn ngạch phát thải khí nhà kính được nghiên cứu và xem xét phân bổ miễn phí cho các cơ sở phát thải khí nhà kính thuộc một số lĩnh vực phát thải lớn. Tín chỉ các-bon được xác nhận giao dịch trên sàn giao dịch các-bon, bao gồm các tín chỉ thu được từ chương trình, dự án theo cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước; cơ chế Phát triển sạch (CDM); cơ chế Tín chỉ chung (JCM); và cơ chế theo Điều 6 Thỏa thuận Paris. Tỷ lệ tín chỉ các-bon được sử dụng để bù trừ phát thải khí nhà kính trên tổng số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ cho cơ sở do Chính phủ quy định. Chủ thể tham gia giao dịch trên sàn giao dịch các-bon trong giai đoạn này là các cơ sở phát thải khí nhà kính lớn thuộc Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính do Thủ tướng Chính phủ ban hành và được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính, cùng với các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện được phép mua, bán tín chỉ các-bon trên sàn giao dịch.
Giai đoạn vận hành chính thức từ năm 2029 sẽ đưa thị trường các-bon vào hoạt động chính thức trên toàn quốc. Các lĩnh vực và cơ sở được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính được nghiên cứu và xem xét mở rộng theo lộ trình. Hạn ngạch phát thải khí nhà kính trong giai đoạn này sẽ được nghiên cứu và xem xét phân bổ theo cả hai phương thức miễn phí và đấu giá, với tỷ lệ phân bổ chi tiết được đề xuất dựa trên kết quả triển khai thí điểm, thông tin và số liệu thực tế về hạn ngạch được cấp và khối lượng giao dịch. Giai đoạn này cũng sẽ xem xét bổ sung thêm các loại tín chỉ các-bon được xác nhận giao dịch trên sàn, điều chỉnh tỷ lệ tín chỉ được phép sử dụng để bù trừ phát thải và mở rộng điều kiện, phạm vi các tổ chức, cá nhân được phép tham gia giao dịch trên sàn giao dịch các-bon.
Ý nghĩa của việc thành lập thị trường các-bon
Quyết định số 232/QĐ-TTg đã tạo cơ sở pháp lý và định hướng rõ ràng cho doanh nghiệp trong việc tham gia thị trường các-bon. Cơ chế giao dịch hạn ngạch phát thải và tín chỉ các-bon không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải theo quy định pháp luật, mà còn mở ra cơ hội tối ưu chi phí và tạo thêm nguồn thu từ các hoạt động giảm phát thải. Đồng thời, việc tham gia thị trường các-bon giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, giảm thiểu rủi ro từ các rào cản thương mại xanh như cơ chế CBAM của Liên minh châu Âu. Đây cũng là động lực thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, theo đó nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
|
Hiện nay, các nước trên thế giới đã và đang xây dựng hệ thống giao dịch phát thải của mình, điển hình như Hệ thống giao dịch phát thải của Liên minh Châu Âu (EU ETS) hay Hệ thống phát thải của Hàn Quốc (K-ETS). Với hai hệ thống này, chúng đều áp dụng cơ chế “cap-and-trade”, song có sự khác biệt về quy mô và cách thức triển khai. Cụ thể, EU ETS là thị trường carbon bắt buộc lớn nhất toàn cầu, bao phủ khoảng 40% phát thải của EU, áp dụng cho các ngành điện, công nghiệp nặng, hàng không và vận tải biển, gắn với mục tiêu “Fit for 55” và trung hòa carbon vào năm 2050. Trong khi đó, K-ETS được triển khai từ năm 2015, bao phủ 70–75% phát thải quốc gia, tập trung vào điện, công nghiệp chế tạo, thép, xi măng, hóa chất và hàng không nội địa, nhằm thực hiện cam kết NDC và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Dù cùng áp dụng một cơ chế, hai thị trường chưa công nhận lẫn nhau, dẫn tới việc tín chỉ phát thải chỉ có giá trị trong phạm vi từng thị trường. Điều này gây áp lực lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các đơn vị xuất khẩu sang EU, khi họ không thể sử dụng tín chỉ đã mua trong nước để đáp ứng yêu cầu của EU ETS mà vẫn phải mua bổ sung, làm phát sinh chi phí kép và giảm sức cạnh tranh. |
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
