Kiểm kê khí nhà kính (KNK) hiện được xem là yếu tố cấp thiết, giúp quốc gia và doanh nghiệp đo lường, quản lý và minh bạch hóa lượng phát thải để xây dựng lộ trình giảm phát thải phù hợp. Để bảo đảm độ tin cậy của dữ liệu phát thải và hấp thụ KNK, đồng thời phát hiện và khắc phục các sai sót, chênh lệch trong quá trình kiểm kê, công tác thẩm định KNK cần được triển khai thường xuyên và có hệ thống. Nhận thức rõ tầm quan trọng này, trong những năm gần đây, Việt Nam đã chú trọng tăng cường và từng bước hoàn thiện hệ thống thẩm định khí nhà kính, đồng thời đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, chính xác và nhất quán trong báo cáo khí hậu quốc gia.
Trước những thách thức ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam cũng đang chịu nhiều tác động trực tiếp và gián tiếp. Thực tiễn này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và thúc đẩy phát triển lĩnh vực môi trường theo hướng bền vững. Trên cơ sở đó, ngày 04 tháng 9 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1894/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường (CNMT) Việt Nam giai đoạn 2025–2030, nhằm định hướng và tạo động lực cho sự phát triển của ngành trong thời gian tới.
Cụ thể, tại Quyết định này, Chính phủ nêu rõ quan điểm xác định phát triển công nghiệp môi trường là một bộ phận cấu thành quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Theo đó, Nhà nước ưu tiên thúc đẩy lĩnh vực này thông qua các chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ theo quy định pháp luật, đồng thời khai thác tối đa các nguồn lực trong nước để gắn kết với chiến lược và chính sách phát triển công nghiệp quốc gia.
Bên cạnh đó, Chính phủ xác định ưu tiên hỗ trợ phát triển CNMT qua thể chế, cơ chế, chính sách để khuyến khích, ưu đãi; đồng thời khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có, gắn với định hướng phát triển công nghiệp quốc gia và mục tiêu tăng trưởng xanh. Một trong những trọng tâm là phát triển doanh nghiệp CNMT trong nước theo hướng hiện đại, có năng lực cạnh tranh ở quy mô quốc gia, khu vực và quốc tế. Khu vực doanh nghiệp tư nhân được xác định là lực lượng trung tâm, được hỗ trợ mạnh mẽ về cơ chế, tín dụng xanh, công nghệ và mở rộng thị trường, hướng tới hình thành các tập đoàn công nghệ môi trường lớn trong nước.
Ngoài ra, Chính phủ cũng định hướng phát triển CNMT dựa trên đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và phát triển thị trường hàng hóa môi trường, đồng thời tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và nền tảng số phục vụ sản xuất, chế tạo thiết bị và sản phẩm CNMT trong nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Với các quan điểm này, Chính phủ đặt mục tiêu xây dựng và phát triển ngành công nghiệp môi trường trở thành một ngành kinh tế độc lập, có đóng góp quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc gia và đóng vai trò chiến lược trong bảo đảm độc lập, tự chủ về công nghệ, thiết bị và sản phẩm phục vụ xử lý các thách thức môi trường của đất nước. Ngành công nghiệp môi trường được định hướng có khả năng làm chủ công nghệ, tự chủ sản xuất, đồng thời đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghệ, thiết bị và sản phẩm công nghiệp môi trường, qua đó đóng góp tích cực cho các mục tiêu về bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải khí nhà kính.
Bên cạnh đó, Chính phủ hướng tới nâng cao năng lực và vai trò của ngành công nghiệp môi trường trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện năng lực cạnh tranh dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ngành này được kỳ vọng đóng vai trò dẫn dắt quá trình chuyển đổi xanh, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, đồng thời hình thành hệ sinh thái công nghiệp môi trường hiện đại, gắn kết doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan quản lý và tổ chức quốc tế nhằm làm chủ, thương mại hóa công nghệ và tăng cường nội địa hóa thiết bị, sản phẩm trong lĩnh vực môi trường.
Theo đó, Chính phủ đặt ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó có phấn đấu nâng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp môi trường trong GDP công nghiệp đạt mức tương xứng với vai trò của một ngành kinh tế độc lập, từng bước mở rộng quy mô và năng lực sản xuất hàng hóa, dịch vụ và công nghệ môi trường. Ngành được định hướng đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước, đồng thời có khả năng xuất khẩu sản phẩm, thiết bị và công nghệ môi trường sang các thị trường khu vực và quốc tế.
Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ và phát triển một số công nghệ cốt lõi trong xử lý chất thải, tái chế, tái sử dụng tài nguyên, quan trắc và kiểm soát ô nhiễm, giảm phát thải khí nhà kính; tăng tỷ lệ nội địa hóa thiết bị, công nghệ và sản phẩm công nghiệp môi trường. Bên cạnh đó, Chính phủ hướng tới hình thành hệ thống doanh nghiệp công nghiệp môi trường hiện đại, trong đó có các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Cùng với đó, các mục tiêu cụ thể cũng bao gồm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tăng cường năng lực nghiên cứu – thiết kế – chế tạo trong lĩnh vực công nghệ môi trường, và hình thành cơ sở dữ liệu, nền tảng số phục vụ phát triển hệ sinh thái công nghiệp môi trường quốc gia.
Để thực hiện các mục tiêu phát triển ngành công nghiệp môi trường đến năm 2030, Chính phủ xác định nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm. Trước hết, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp môi trường, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với các chiến lược, chương trình và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp và bảo vệ môi trường quốc gia. Các bộ, ngành và địa phương được giao rà soát, xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về phát triển công nghiệp môi trường, cơ chế khuyến khích đầu tư, ưu đãi thuế, tín dụng xanh, hỗ trợ đổi mới công nghệ và phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ môi trường.
Song song với đó, Chính phủ đề ra nhiệm vụ phát triển và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ, công nghệ và thiết bị công nghiệp môi trường trong nước; thúc đẩy sử dụng sản phẩm, công nghệ, dịch vụ môi trường nội địa trong các dự án đầu tư công và các chương trình xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường, giảm phát thải khí nhà kính. Đồng thời, khuyến khích hình thành và phát triển thị trường carbon, hệ thống giao dịch tín chỉ carbon và các mô hình kinh tế tuần hoàn, qua đó tạo động lực mới cho doanh nghiệp công nghiệp môi trường phát triển.
Một trọng tâm khác là phát triển doanh nghiệp công nghiệp môi trường trong nước theo hướng hiện đại, có năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và cung ứng thiết bị, sản phẩm, công nghệ môi trường. Chính phủ khuyến khích hình thành các tập đoàn tư nhân mạnh, các doanh nghiệp đầu tàu dẫn dắt chuỗi giá trị, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tín dụng, công nghệ và thị trường. Việc thúc đẩy hợp tác công – tư, liên kết giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học cũng được nhấn mạnh nhằm hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp môi trường.
Ngoài ra, nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thẩm định công nghệ và quản lý môi trường cũng là yếu tố quan trọng nhằm hiện thực hoá các mục tiêu trên. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, cũng như hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ và phát triển kỹ năng được ưu tiên triển khai. Cùng với đó là việc đầu tư nâng cao năng lực nghiên cứu, thử nghiệm, kiểm định và chứng nhận sản phẩm, thiết bị môi trường, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo và cơ sở dữ liệu số quốc gia về công nghiệp môi trường.
Chính phủ đồng thời yêu cầu đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực đầu tư, tài chính và công nghệ từ các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài; thúc đẩy hội nhập và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu trong lĩnh vực công nghiệp môi trường. Việc theo dõi, đánh giá và báo cáo kết quả thực hiện chương trình được thực hiện thường xuyên, bảo đảm kịp thời điều chỉnh chính sách, biện pháp hỗ trợ phù hợp với thực tiễn triển khai.
Theo Quyết định 1894/QĐ-TTg, Bộ Công Thương là cơ quan chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương triển khai, hướng dẫn, theo dõi và đánh giá việc thực hiện Chương trình. Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường để tạo áp lực phát triển thị trường hàng hoá công nghiệp môi trường. Các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố xây dựng dự toán, bố trí nguồn lực, phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức triển khai các nhiệm vụ có liên quan thuộc Chương trình, đồng thời định kỳ báo cáo kết quả về Bộ Công Thương để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
|
Hiện nay, liên quan đến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, Việt Nam đang thực hiện nhiều cam kết quốc tế. Trong đó, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu yêu cầu các quốc gia thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, và Việt Nam đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Việt Nam cũng tham gia Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, bao gồm 17 Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), nhiều mục tiêu liên quan trực tiếp đến bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên bền vững, phát triển năng lượng sạch và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên. Ngoài các cam kết quốc tế, Việt Nam đã ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, bao gồm EVFTA, CPTPP và UKVFTA. Các hiệp định này đều có các chương mục về bảo vệ môi trường, quy định sử dụng công nghệ sạch, quản lý môi trường trong sản xuất và thương mại, và thúc đẩy các biện pháp tăng trưởng xanh. |
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
