Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, bảo vệ môi trường đã trở thành xu thế tất yếu trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Hầu hết các nước đều đẩy mạnh chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, giảm phát thải, gắn bảo vệ môi trường với sản xuất hàng hoá. Theo đó, việc hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật ở Việt Nam là một trong những công cụ quan trọng, giúp kiểm soát và giảm phát thải khí nhà kính và đáp ứng yêu cầu đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV); nâng cao tính minh bạch trong quá trình sản xuất hàng hóa, đồng thời tạo nền tảng cho việc hình thành và vận hành thị trường các-bon trong nước cũng như tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường các-bon quốc tế.
Một số cam kết quốc tế về ứng phó BĐKH và phát triển bền vững
Hiện nay, Việt Nam tham gia tích cực các thỏa thuận và điều ước quốc tế về ứng phó biến đổi khí hậu, bao gồm Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) (từ ngày 16/11/1994), Nghị định thư Kyoto (từ ngày 29/5/2002) và Thỏa thuận Paris (từ ngày 04/11/2016) giúp thúc đẩy việc mua bán, trao đổi tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế, thể hiện các cam kết sâu rộng của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, nhiều chính sách và văn bản pháp lý đã được Việt Nam ban hành nhằm thực hiện các cam kết quốc tế này.
Một số chính sách, quy định trong nước về ứng phó BĐKH và phát triển bền vững
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Cơ chế phát triển sạch (CDM), Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 35/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2005 về việc tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto; Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo CDM và một số thông tư hướng dẫn thực hiện CDM. Năm 2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã chủ trì, tổ chức việc triển khai Cơ chế tín chỉ chung (JCM) giữa Việt Nam và Nhật Bản, ban hành Thông tư số 17/2015/TT-BTNMT ngày 06/4/2015 quy định việc xây dựng và thực hiện dự án theo cơ chế JCM. Trong đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) cập nhật năm 2022, được Việt Nam đệ trình lên Ban Thư ký UNFCCC theo Thỏa thuận Paris, Việt Nam đã thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ trong việc giảm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi sang mô hình phát triển phát thải thấp. Cụ thể, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ giảm 15,8% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) bằng nguồn lực trong nước. Mức cắt giảm này có thể nâng lên 27,7%, tương đương khoảng 257,4 triệu tấn CO₂ tương đương, nếu quốc gia nhận được sự hỗ trợ đầy đủ về tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực từ cộng đồng quốc tế. Không chỉ vậy, tại COP26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tuyên bố Việt Nam phấn đấu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, khẳng định rõ vị thế, trách nhiệm và khát vọng của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, đồng thời tạo cơ sở để định hình lại chiến lược phát triển năng lượng, công nghiệp và môi trường trong các thập kỷ tới.
Bên cạnh việc trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trên thị trường quốc tế, trong thời gian qua, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam cũng đã xác định được sự cần thiết phải phát triển thị trường các-bon. Quy định về thị trường các-bon chính thức được luật hóa tại Điều 41 Luật Bảo vệ môi trường 2014 với nội dung “quản lý phát thải khí nhà kính” và tiếp tục được cập nhật chi tiết hơn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Điều 139); Nghị định số 119/2025/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/6/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn; Quyết định số 232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 24/1/2025 phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam..
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng ban hành một số văn bản liên quan khác, bao gồm: Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/8/2024 về danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính cùng các Thông tư chuyên ngành quy định phương pháp đo lường, báo cáo đánh giá mức giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng kiểm kê khí nhà kính trong quản lý các ngành, lĩnh vực cụ thể.
Về chính sách thuế, phí liên quan đến việc phát thải các-bon, pháp luật hiện hành của Việt Nam đang quy định tại một số văn bản tiêu biểu, bao gồm:
Dưới đây là danh mục tổng hợp một số chủ trương, chính sách, quy định pháp luật tiêu biểu được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhằm quy định chi tiết các nội dung liên quan đến thuế, phí các-bon, trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon, phát triển và vận hành thị trường các-bon:
|
STT |
Tên và trích yếu văn bản |
Ngày ban hành |
Cơ quan ban hành |
Ghi chú |
|
1 |
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số 66/2025/QH15 |
14/6/2025 |
Quốc hội |
|
|
2 |
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 67/2025/QH15 |
14/6/2025 |
Quốc hội |
|
|
3 |
Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 |
26/11/2024 |
Quốc hội |
|
|
4 |
Luật Bảo vệ Môi trường số 72/2020/QH14 |
17/11/2020 |
Quốc hội |
Được quy định chi tiết bởi: - Nghị định 131/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2025; - Nghị định 136/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12 tháng 6 năm 2025. |
|
5 |
Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 |
25/11/2015 |
Quốc hội |
|
|
6 |
Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 |
25/11/2009 |
Quốc hội |
Được sửa đổi, bổ sung bởi: - Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014; - Luật số 12/2022/QH15 ngày 14/11/2022. |
|
7 |
Nghị định 199/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 26/2023/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan |
08/7/2025 |
Chính phủ |
|
|
8 |
Nghị định số 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn |
09/6/2025 |
Chính phủ |
|
|
9 |
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải |
21/11/2024 |
Chính phủ |
Được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 125/2025/NĐ-CP ngày 11 /06/2025 |
|
10 |
Nghị định số 27/2023/NĐ-CP quy định phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản |
31/5/2023 |
Chính phủ |
|
|
11 |
Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn |
07/1/2022 |
Chính phủ |
Được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 119/2025/NĐ-CP ngày 09/6/2025 |
|
12 |
Quyết định số 232/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam |
24/1/2025 |
Thủ tướng Chính phủ |
|
|
13 |
Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg về danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính |
13/8/2024 |
Thủ tướng Chính phủ |
Thay thế Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/1/2022 của TTCP ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính. |
|
14 |
Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch |
02/8/2007 |
Thủ tướng Chính phủ |
|
|
15 |
Thông tư số 17/2015/TT-BTNMT quy định việc xây dựng và thực hiện dự án theo Cơ chế tín chỉ chung trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam và Nhật Bản |
06/4/2015 |
Bộ Tài nguyên và Môi trường |
|
|
16 |
Thông tư số 15/2014/TT-BTNMT quy định việc xây dựng, cấp thư xác nhận, cấp thư phê duyệt dự án theo Cơ chế phát triển sạch trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto |
24/3/2014 |
Bộ Tài nguyên và Môi trường |
Được sửa đổi, bổ sung bởi: - Thông tư số 11/2022/TT-BTNMT ngày 20/10/2022; - Thông tư số 19/2023/TT-BTNMT ngày 15/11/ 2023 |
Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới ngày càng chú trọng phát triển bền vững, việc Việt Nam ban hành các chính sách liên quan đến cơ chế phát triển sạch, giảm phát thải khí nhà kính và thị trường tín chỉ carbon đã góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này.
Trên phương diện quốc tế, các nước cũng có xu hướng triển khai các chính sách nhằm thực hiện mục tiêu giảm phát thải. Cụ thể, Liên minh châu Âu (EU) đã áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) từ năm 2026, yêu cầu nhà nhập khẩu kê khai và trả chi phí carbon tương đương với sản phẩm sản xuất trong EU. Tương tự, Vương quốc Anh đang hoàn thiện cơ chế CBAM riêng, trong khi Canada, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc nghiên cứu các biện pháp định giá carbon gắn với thương mại. Các chính sách này hướng tới bảo đảm công bằng trong cạnh tranh carbon toàn cầu, song cũng tạo ra thách thức lớn cho các nước xuất khẩu, đặc biệt là các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên
