Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025 đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam về khoa học và công nghệ khi quy định rõ ràng hơn về vai trò của thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và khai thác tài sản trí tuệ. Các quy định của Luật phản ánh quyết tâm của Nhà nước trong việc đưa khoa học và công nghệ trở thành động lực tăng trưởng, không chỉ dừng lại ở hoạt động nghiên cứu cơ bản hay các kết quả mang tính học thuật. Thay vào đó, Luật đặt trọng tâm vào việc tạo ra giá trị thông qua việc đưa tri thức khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh, đồng thời thiết lập cơ chế quản lý mới để khai thác tài sản trí tuệ, sáng chế, bí quyết kỹ thuật và các sản phẩm trí tuệ khác. Bài viết này tập trung phân tích những nội dung của Luật liên quan trực tiếp đến thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và xây dựng nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo.
Trước hết, Luật khẳng định một cách nhất quán rằng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phải gắn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy năng suất. Quy định này không chỉ mang tính nguyên tắc mà còn đặt ra yêu cầu thực tiễn đối với các kết quả nghiên cứu khoa học. Theo Luật, kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ, dù được tài trợ theo hình thức nào, đều phải được đánh giá, phân loại và xác định khả năng ứng dụng hoặc chuyển giao. Việc xác định khả năng ứng dụng không chỉ nhằm mục tiêu quản lý nhà nước mà còn để thúc đẩy các tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ chủ động định hướng nghiên cứu theo hướng có thể thương mại hóa. Luật đã đưa ra một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, buộc quá trình nghiên cứu không thể kết thúc ở báo cáo mà phải tiếp tục đến khâu triển khai, ứng dụng và hình thành sản phẩm, công nghệ có giá trị kinh tế hoặc xã hội.
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật liên quan đến thương mại hóa là quy định về quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền khai thác kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Luật trao quyền chủ động lớn hơn cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong việc xác lập quyền sở hữu đối với kết quả nghiên cứu, kể cả đối với nhiệm vụ có sử dụng ngân sách nhà nước. Điều này nhằm khắc phục tình trạng trước đây khi nhiều kết quả nghiên cứu thuộc sở hữu nhà nước nhưng không được giao quyền rõ ràng cho bất kỳ tổ chức nào, dẫn đến việc không thể thương mại hóa hoặc chậm trễ trong chuyển giao. Theo Luật mới, tổ chức được giao chủ trì nhiệm vụ có quyền đăng ký sở hữu trí tuệ, quyền khai thác hoặc thỏa thuận chuyển giao quyền sử dụng cho bên thứ ba, bao gồm cả doanh nghiệp. Quy định này giúp bảo đảm rằng các sáng chế, giải pháp hữu ích hay bí quyết kỹ thuật được tạo ra từ ngân sách nhà nước không bị lãng phí mà có tuyến đường rõ ràng để đi vào thực tiễn.
Luật cũng quy định cơ chế định giá, giao quyền và chuyển giao kết quả nghiên cứu một cách minh bạch hơn. Các tổ chức chủ trì có trách nhiệm xác định giá trị tài sản trí tuệ theo chuẩn mực được Nhà nước ban hành, đồng thời thực hiện việc giao quyền, chuyển giao hoặc cho phép sử dụng theo hợp đồng. Nhà nước không còn giữ vai trò can thiệp sâu vào quá trình đàm phán mà bảo đảm cơ chế pháp lý để các giao dịch này diễn ra thuận lợi. Đây là bước tiến quan trọng, bởi định giá tài sản trí tuệ và kết quả nghiên cứu là một trong những nút thắt lớn nhất đối với thương mại hóa ở Việt Nam thời gian qua. Khi cơ chế định giá được quy định trong luật, các tổ chức KH&CN và doanh nghiệp có cơ sở pháp lý để thực hiện giao dịch mà không lo ngại rủi ro về trách nhiệm pháp lý hay sai phạm trong quản lý tài sản công.
Một khía cạnh nổi bật khác liên quan trực tiếp đến thương mại hóa là những quy định về quỹ phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế sử dụng kinh phí để hỗ trợ chuyển giao, hoàn thiện công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Theo Luật, các quỹ khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được phép sử dụng để đầu tư vào hoạt động tiếp nhận, làm chủ, cải tiến công nghệ, tham gia các dự án đổi mới sáng tạo hoặc thương mại hóa sản phẩm. Điều này tạo nên một cú hích lớn đối với khu vực doanh nghiệp, vốn là chủ thể có vai trò then chốt trong việc đưa công nghệ vào thực tiễn. Các doanh nghiệp không chỉ sử dụng quỹ để nghiên cứu mà còn để mua, nhận chuyển giao kết quả nghiên cứu từ viện, trường hoặc tổ chức khoa học và công nghệ khác. Như vậy, Luật xây dựng một cơ chế tài chính tích cực để doanh nghiệp thực sự trở thành động lực của đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, Luật có những điều khoản quan trọng về các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ, bao gồm tổ chức ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, trung tâm chuyển giao công nghệ và sàn giao dịch công nghệ. Việc định danh và quy định rõ vai trò pháp lý của các tổ chức này giúp hình thành một hệ sinh thái hỗ trợ thương mại hóa rộng hơn, nơi kết quả nghiên cứu không chỉ được tạo ra mà còn được hoàn thiện, kiểm nghiệm, sản xuất thử nghiệm và trình diễn công nghệ trước khi đưa ra thị trường. Luật giao cho các tổ chức trung gian chức năng hỗ trợ định giá tài sản trí tuệ, tư vấn pháp lý, tư vấn quản lý công nghệ và kết nối đầu tư. Điều này cho thấy thương mại hóa không chỉ là quan hệ giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp, mà là một quá trình có nhiều mắt xích, trong đó các tổ chức trung gian đóng vai trò tăng tốc đưa công nghệ từ phòng thí nghiệm vào sản xuất.
Một điểm đáng chú ý trong Luật là quy định về việc doanh nghiệp được đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời được ưu tiên tiếp nhận các kết quả nghiên cứu có khả năng ứng dụng cao. Cơ chế đặt hàng này đưa doanh nghiệp trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo, bởi doanh nghiệp chính là chủ thể hiểu rõ nhất nhu cầu thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khi doanh nghiệp đặt hàng, nghiên cứu sẽ được định hướng theo mục tiêu cụ thể, bảo đảm tính ứng dụng và khả năng thương mại hóa ngay từ đầu. Điều này khắc phục tình trạng kết quả nghiên cứu không phù hợp nhu cầu thị trường, vốn là vấn đề phổ biến trong hệ thống nhiệm vụ khoa học và công nghệ trước đây.
Luật cũng quy định rõ việc đánh giá kết quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng coi trọng khả năng ứng dụng và tác động. Việc đánh giá không chỉ dựa trên chỉ tiêu học thuật, mà còn dựa trên mức độ hoàn thiện công nghệ, khả năng chuyển giao, và triển vọng tạo giá trị kinh tế – xã hội. Các kết quả nghiên cứu được phân loại theo mức độ sẵn sàng công nghệ (TRL), nhằm giúp Nhà nước, viện nghiên cứu và doanh nghiệp có cách tiếp cận thống nhất đối với quá trình đưa công nghệ vào thực tiễn. Đây là một bước cải cách có ý nghĩa, bởi nó định lượng được mức độ tiến triển của công nghệ và giúp xác định rõ khâu cần đầu tư thêm để thương mại hóa.
Ngoài ra, Luật cũng nhấn mạnh tới trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng hạ tầng hỗ trợ nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, bao gồm khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo và các phòng thí nghiệm trọng điểm. Các hạ tầng này không chỉ phục vụ nghiên cứu mà còn được thiết kế để thúc đẩy hoạt động thử nghiệm, sản xuất thử và kết nối doanh nghiệp. Hạ tầng tốt sẽ rút ngắn thời gian đưa sản phẩm ra thị trường và giảm chi phí tiếp cận công nghệ mới của doanh nghiệp. Đây là nền tảng quan trọng giúp hoạt động thương mại hóa diễn ra liên tục và bền vững.
Tóm lại, các quy định của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025 đã tạo ra một khuôn khổ toàn diện, đồng bộ và hiện đại để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Luật không chỉ xác lập quyền sở hữu và cơ chế khai thác kết quả nghiên cứu rõ ràng hơn, mà còn thiết lập hệ sinh thái gồm doanh nghiệp, tổ chức trung gian, quỹ tài chính và hạ tầng đổi mới sáng tạo nhằm bảo đảm rằng tri thức khoa học có thể tạo ra giá trị thực tế. Cách tiếp cận này phù hợp với tinh thần của Hiệp định TRIPS trong WTO, vốn vừa bảo đảm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế, vừa khuyến khích chuyển giao và phổ biến công nghệ nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, Luật 2025 tạo nền tảng pháp lý để Việt Nam thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, nơi các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo được đặt ở mức cao hơn. Qua đó, Luật không chỉ đáp ứng nghĩa vụ hội nhập quốc tế mà còn góp phần nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Có thể nói, đây là bước tiến quan trọng trong việc sử dụng khoa học và công nghệ như một trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời mở ra triển vọng cho một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, nơi các sáng chế và giải pháp công nghệ có thể đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của đất nước.
Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên.
