Cập nhật chính sách

Tình hình thực thi cam kết về lao động trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA)

Thứ Bảy, 01/11/2025

Bài viết phân tích tình hình thực thi các cam kết lao động của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA). Cụ thể, Việt Nam đã có những bước cải cách quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp luật lao động, đặc biệt thông qua Bộ luật Lao động 2019 và Luật Công đoàn 2024 sửa đổi, bổ sung năm 2025. Tuy vậy, việc thực thi vẫn còn một số thách thức do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như hạn chế trong tuân thủ tại doanh nghiệp, năng lực thanh tra, và khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tế.

Việc hiện thực hóa tiềm năng và những cơ hội lớn về mở rộng thị trường nhờ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA) đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục nỗ lực hoàn thiện thể chế và đảm bảo việc thực thi nghiêm túc, hiệu quả những cam kết của mình, trong đó có các cam kết về lao động. Đồng thời, là thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), việc tổ chức triển khai các cam kết về lao động trong EVFTA tiếp tục khẳng định sự nghiêm túc và những nỗ lực của Việt Nam trong thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế, góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, pháp luật về lao động nhằm tạo nền tảng cho sự vận hành của thị trường lao động Việt Nam phù hợp với các quy luật khách quan của kinh tế thị trường cũng như đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước.

1. Cam kết về lao động của Việt Nam trong EVFTA

Chương 13 về Chương Thương mại và Phát triển bền vững của Hiệp định EVFTA quy định mỗi Bên tái khẳng định cam kết của mình trong việc tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện hiệu quả các nguyên tắc về các quyền cơ bản tại nơi làm việc, trong đó gồm xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; cũng như thực hiện hiệu quả luật pháp, quy định trong nước và các Công ước ILO đã được mỗi Bên phê chuẩn.

2. Tình hình thực thi các cam kết

Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong quá trình thực thi các cam kết về lao động theo Chương 13 của Hiệp định EVFTA. Các tiêu chuẩn cơ bản của ILO về tự do liên kết, thương lượng tập thể, xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em và chống phân biệt đối xử đã lần lượt được nội luật hóa và thể hiện trong hệ thống pháp luật lao động Việt Nam. EVFTA đặt ra yêu cầu Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong thực tế tại doanh nghiệp, yêu cầu này ngày càng cấp thiết khi thị trường EU là một trong các đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam và việc tuân thủ tiêu chuẩn lao động là điều kiện để duy trì các ưu đãi thương mại.

Trước hết, Việt Nam đã điều chỉnh mạnh mẽ khung pháp luật về lao động theo hướng tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế. Bộ luật Lao động 2019, có hiệu lực từ năm 2021, bảo đảm tương thích với các Công ước cơ bản của ILO và quyền cơ bản theo Tuyên bố năm 1998. Luật này tăng mức độ bảo vệ người lao động thông qua quy định về bình đẳng giới, không phân biệt đối xử, xóa bỏ lao động cưỡng bức và tăng cường cơ chế bảo vệ trẻ em. Đồng thời, Bộ luật cũng hiện đại hóa quản trị quan hệ lao động, thúc đẩy thương lượng tập thể và tự do hiệp hội. Nổi bật là quy định cho phép người lao động thành lập tổ chức đại diện của mình tại doanh nghiệp, với hai lựa chọn: gia nhập hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký độc lập với Bộ Nội vụ (trước là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội). Đây là bước tiến lớn nhằm đảm bảo Việt Nam tuân thủ cam kết về quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể theo EVFTA.

Cùng với Bộ luật Lao động 2019, Luật Công đoàn 2024 sửa đổi, bổ sung năm 2025 cũng thể hiện những bước tiến quan trọng. Luật mới mở rộng đối tượng được thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, không chỉ bao gồm người lao động có quan hệ lao động mà cả người làm việc không có quan hệ lao động và người lao động là công dân nước ngoài tại Việt Nam. Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo Bộ luật Lao động 2019 cũng được quyền lựa chọn gia nhập Công đoàn Việt Nam. Luật bổ sung nguyên tắc tổ chức và hoạt động của công đoàn theo hướng bảo đảm độc lập, tăng quyền dân chủ của đoàn viên, và mở rộng quyền giám sát, phản biện xã hội của công đoàn đối với chính sách liên quan đến người lao động. Ngoài ra, việc hoàn thiện cơ chế tài chính công đoàn theo hướng minh bạch, độc lập và có kiểm toán cũng phản ánh cam kết cải thiện quản trị công đoàn theo khuyến nghị của ILO.

Về bảo đảm quyền tự do thành lập, tham gia tổ chức đại diện và thực hiện thương lượng tập thể, Việt Nam đã đáp ứng tương đối tốt yêu cầu của EVFTA. Bộ luật Lao động nghiêm cấm sự can thiệp của người sử dụng lao động vào tổ chức đại diện của người lao động; đồng thời luật hóa vai trò đại diện của các tổ chức đại diện cho giới sử lao động như VCCI và Liên minh Hợp tác xã Việt Nam.

Trong việc xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 98 của ILO và mở rộng các quy định chống phân biệt đối xử trong Bộ luật Lao động 2019, bao gồm cả quy định về đình công, lao động cưỡng bức và đảm bảo bình đẳng giữa các nhóm lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam đang giảm dần tình trạng phân biệt đối xử trong tuyển dụng và thu nhập, phù hợp với yêu cầu của EVFTA.

Trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, Chính phủ Việt Nam, tổ chức công đoàn và doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường làm việc. Công đoàn các cấp đã nâng cao vai trò bảo vệ quyền lợi người lao động và giảm tranh chấp lao động thông qua đối thoại và phối hợp với chủ sử dụng lao động. Theo số liệu của Bộ Nội vụ (trước là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) [1],tính đến đầu năm 2024 – tròn bốn năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực – số cuộc đình công trên cả nước chỉ còn hơn 20 vụ. Mức này tương đương chưa đến một phần tư so với cùng kỳ năm 2022 và chỉ bằng khoảng một phần mười so với hơn 200 vụ đình công từng xảy ra vào năm 2018, thời điểm trước khi EVFTA có hiệu lực.

Trong lĩnh vực xóa bỏ lao động trẻ em, Việt Nam đạt nhiều tiến bộ phù hợp tinh thần Công ước 138 và 182 của ILO. Tỷ lệ lao động trẻ em giảm khi từ mức 9,1% năm 2018 (trước EVFTA) xuống còn 6,9% vào năm 2020 – thời điểm ngay sau khi EVFTA bắt đầu được thực thi.[2] Chính phủ triển khai các biện pháp như phổ cập giáo dục, hỗ trợ trẻ em yếu thế và tăng cường an sinh xã hội. Từ năm 2021, Việt Nam hợp tác với ILO và UNICEF thực hiện Chương trình phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2021–2025, đặt mục tiêu giảm tỷ lệ lao động trẻ em dưới 4,9% vào năm 2025 và xuống 4,5% vào năm 2030.[3]

Dù đã đạt nhiều kết quả quan trọng, thực tiễn tuân thủ pháp luật lao động tại doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều người sử dụng lao động chưa chấp hành quy định về hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động hoặc thực hiện chế độ đối với lao động nữ không đầy đủ. Một số doanh nghiệp hạn chế hoạt động của công đoàn cơ sở hoặc không thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi người lao động. Hạn chế trong nhận thức của người lao động về pháp luật cũng là nguyên nhân khiến họ không thể đấu tranh hoặc yêu cầu doanh nghiệp bảo đảm đầy đủ quyền lợi hợp pháp

Nhìn chung, việc thực thi các cam kết lao động trong EVFTA đã giúp Việt Nam đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện rõ qua những cải cách mạnh mẽ về thể chế, đặc biệt là việc ban hành Bộ luật Lao động 2019 và Luật Công đoàn 2024 sửa đổi, bổ sung năm 2025. Những chuyển biến này không chỉ đáp ứng yêu cầu của EVFTA mà còn góp phần quan trọng vào tiến trình hoàn thiện pháp luật lao động, nâng cao chất lượng quan hệ lao động và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của người lao động.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực thi các cam kết lao động vẫn đứng trước nhiều thách thức. Mức độ thực thi chưa đồng đều giữa các ngành và địa phương, cùng với khoảng cách giữa quy định pháp luật và khả năng giám sát – thanh tra trên thực tế, cho thấy cần tiếp tục nâng cao năng lực cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức công đoàn cũng như nhận thức của cả người sử dụng lao động và người lao động.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, việc thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các cam kết trong EVFTA không chỉ là nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam mà còn là động lực để xây dựng thị trường lao động hiện đại, cạnh tranh và bền vững. Tiếp tục cải cách pháp luật, củng cố thiết chế thực thi và tăng cường hợp tác với các đối tác quốc tế sẽ là yếu tố then chốt giúp Việt Nam tận dụng tối đa các lợi ích kinh tế từ EVFTA, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên nền tảng phát triển bền vững./.

Nguồn: Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương

 
  • Tải xuống

Bài viết liên quan